NGƯỜI LÍNH ẤY CỦA TÔI…
Tôi quen anh năm 17 tuổi,
khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh
là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi
đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật
chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si
mê.
Anh nhất định
đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng
Thầy Mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản
đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và
hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn
nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng
tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn
nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những
ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm
tôi đã thổn thức một mình.
Cảm giác lúc ấy là
chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà
biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày
về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền
lòng Ba Má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi
công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ
truớc ngày anh tốt nghiệp. Anh gần nổi
giận cả với tôi, anh nhất định đi
Nhảy Dù. Bao nhiêu giòng nước mắt cũng không
cản được con người ấy. Gia
đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út,
được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà
ai cũng quý mến anh…
Thế là tôi rời ghế
nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng
như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái.
Rồi thì giã từ quê huơng Đà lạt yêu
dấu, giã từ những kỷ niệm yêu
đương trên từng con dốc, từng vạt
nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi
thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo
anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi
chưa hề được chuẩn bị để làm
dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà
chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng
được cha mẹ và các em chồng hết lòng
thương mến. Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô
những món ăn tôi nấu nướng.
Tuần trăng mật
thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn
vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường,
rồi trình diện đơn vị mới, Tiểu
đoàn 5 Nhảy Dù ở Tam Hiệp. Mùng sáu tết Tân
Hợi 1971, Sư đoàn Dù của anh đi mặt trận
Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con
sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh
siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra
đi trong giòng nước mắt vợ hiền là
điều xui rủi.
Tôi vội vã gượng
cười, để rồi từng đêm thổn
thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run
rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa...
Thư anh từ mặt trận toàn những
điều thương nhớ ngập tràn, pha lẫn
những lời như những tràng cười say sưa
của người tráng sĩ đang tung mình trên
lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng
vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường
đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi
“phải khấn cho nó bị thương nhẹ để
mà về, chứ vô sự thì lại không được
về, vẫn còn bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang,
thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với
đầy nước mắt, chẳng khấn được
câu nào… Má tôi trên Đà lạt cũng vội lặn
lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được
tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để
chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.
Sau trận đầu tiên
ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo
trước ngực. Tôi run run dội nước
tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương,
mà không dấu được nụ cười đầy
sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm
ơn Trời Phật linh thiêng…
Rồi anh lại ra đi.
Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các giòng
tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng,
Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn
những trận ác liệt một mất một còn
với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là
lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao
thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong
lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh
mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi
về về trong tiếng cười vui sang sảng,
hệt như các bạn chiến đấu trong cùng
đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần
đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng,
Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….
Mỗi lần trở
về bình an là một lần cả nhà mở hội, và
mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần
tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang
vang khúc hát lên đường. Con người ấy
không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra
sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích
nụ cười và những lời thương yêu
chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có
niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào
hại được thân anh. Tôi chỉ còn biết
chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh
buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn
ngủi, tôi chỉ lo chiều chuộng và đem lại cho
anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của
người lính chiến, không muốn để anh bận
lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai
năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi,
đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.
Rồi mùa hè đỏ
lửa nổ ra lúc Tiểu Đoàn 5 Dù đang đóng quân
ở vườn Tao Đàn. Anh nhảy vào An Lộc,
lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân
đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất
cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận
một chữ một lời. Người hạ
sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình
thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi
cười ngay từ đầu ngõ. Anh về
được đúng một tuần, thì lại lên
đường đi Quảng Trị... Rồi anh
lại bị thương ở cửa ngõ Cổ thành,
trở về trong phòng hồi sinh Tổng y viên Cộng Hòa.
Trên đường tới bệnh viện cùng với
gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh
chồng…
Nhưng rồi anh vẫn
đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành
quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận
tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương đến
thế cái con người dường như chỉ
biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ
biết ước nguyện của anh là trở thành
một tướng Patton của Việt Nam, “…Rồi
nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên,
mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ.
Nền nếp quân đội sẽ phải thay
đổi. Anh muốn làm tư lệnh đại
đơn vị, để anh điều động liên
quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc
như Patton cho mà coi. Căm bốt, Hạ Lào Trung
Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà”. Tôi chỉ
ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai
tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi
cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành
quân...
Sinh cháu gái đầu lòng
năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con
tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn
thủ đường ranh giới ngưng chiến ở
vùng Tây Nam Huế...
Tháng tư năm 1975,
đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức,
chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em
chồng là sĩ quan chuyên vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để
chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng
tôi bảo cả gia đình, gồm Thầy Mẹ, các chú và
cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh
nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở
về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi,
nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải
bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao
núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn
Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn
một cái Mậu Thân nữa thì mới hết chiến
tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là
thường, còn trận cuối này là xong.…” Anh hăng say
như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng
lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông
anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không
còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định
đòi ở lại. Vợ chồng sống chết có
nhau...
Ba lần toan vượt
thoát từ đầu đến giữa tháng 5 đều
thất bại não nề. Anh lên đường đi
trại tập trung vào tháng 6, khi tôi đang mang bầu cháu
thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo
bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với
mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh
vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng
còn mẹ con em, anh ơi??? …
Gia đình nhà chồng tôi
thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu 505
đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm
con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ
Đà lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây
quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia
đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi
nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ
chồng để lại, đuổi mấy cũng không
đi. Chị ruột tôi bỏ dấn vốn ra mua
được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé
chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên
hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ
điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già
mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ
có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao.
Lên Long Giao cũng không gặp được, rồi
anh bị đưa ra Bắc.
Năm đó tôi tròn 25
tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến
nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao
người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc
đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng
có ngày về... Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén
đôt nhiên bùng phát. Tôi vùng lên như một con cọp
cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ
tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!!
Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi
hận.
Không, không, một ngàn
vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác
rưởi. Toàn bọn cán ngố từ Bắc vào và
từ trong khu ra, và không kể các bậc trưởng thượng
cùng anh em chiến sĩ miền Nam đang khổ sở,
thì đàn ông ở miền Nam khi ấy cũng chỉ còn
bọn người không đủ điều kiện
để phải đi tù cải tạo, dù chỉ có ba
ngày.
Vâng, những người
đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng
Sản mới là những người xứng đáng
với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi.
Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù
cải tạo” của các ông để chọn gửi
cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi
bất định…. Còn gì nữa mà chọn lựa!
Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi
vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm
giọng trước bọn người lường
lọc, bướm ong, hèn hạ bợ đỡ kẻ
thù, thấp kém từ kiến thức đến tư cách.
Chị em tôi buôn bán từ
thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì,
thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội
uốn tóc, làm móng tay … nhưng luôn tránh chỗ công
quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con
mắt hau háu của bọn cướp nước và
bọn trở cờ. Mấy anh chị em tôi
đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng
một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu
thề…
Vượt qua
được thời gian khó khăn cực khổ
nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được
gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả
nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần,
rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi….
Anh từ miền cực
bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một
năm, thì tôi xin được giấy phép đi
thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy
đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà
để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn
bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục
ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên.
Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần
nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả
hai con đi cho anh gặp đứa con trai.
Xuống ga Thanh Hóa, cả
đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã.
Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ
chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo
lết đi thuê nhà trọ. Không cho khiêng bọn chúng
trở mặt chửi liền. Có người đã
đi về kể rằng cứ sơ ý là bọn dân này
vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở
lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi
nhờ một chị mua thêm được ký mỡ,
về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi
vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe
tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã
bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn
rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc
hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ
đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.
Xe đò đi Thanh Cẩm
chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm
người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát
để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi
lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số
mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai
cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay .
Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo
giúp hết người nọ tới người kia.
Xong giấy tờ, chờ
một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu
đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu,
tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ
con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường
đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi
chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.
Chân tay rã rời, tới
chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam
Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom
lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm
lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính
trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu
trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm
chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi
mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ
được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi
nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi,
người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận
lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???
Sáng, đến lượt
ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không
được phép ra khỏi cửa căn buồng
nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc
hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc
đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa
biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng
chọc, hằn học, đợi chờ như con gà
đá sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu
người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù
hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi
sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ
nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao
quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi
được biết chỉ còn một tiếng
rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt
đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi
cực, không thể nào cầm được.
Trên thế giới này có ai
phải lặn lội hằng ngàn cây số để
chỉ được gặp chồng có một giờ ba
mưới phút không hả Trời?!!
Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.
Tôi chạy tới ôm anh, và
càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức
lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu
đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay.
Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có
đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn
hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u
buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói
được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con
thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn
tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt
trước mặt bọn công an.
Anh dìu tôi và dắt con
trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi,
đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh
lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối
diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu
bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi.
Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi.
Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải
đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh
Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô
Huyền đã xung phong đi khai khẩn rồi, đang
chờ vợ chồng mình lên lao động sản
xuất.
Tôi hơi sững sờ,
rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật
cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của
chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên
gọi của Thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và cô
Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã
đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn.
Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:
- Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.
Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn. Tôi cúi mặt giận dỗi:
- Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được …
Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:
- Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao động tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ…. Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!
Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:
- Đó em thấy
chưa, cán bộ ở đây ai cũng sáng suốt như
vậy hết, em phải nghe anh mới được…
Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách Nhà
nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy
con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái
xấu, nghe…
Tôi dở khóc dở
cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức,
dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai
bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên,
lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm
hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt
chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa
lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh
những lời buồn thương da diết.
Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ
được gần cha trong giây lát nữa thôi.
Tôi như một cái máy,
vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc
lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo
nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất
định đợi anh mà... anh về rồi mình cùng
đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe
cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về….
Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm
giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…
Tôi chợt thấy
chồng tôi nhòa nuớc mắt. Cô công an lúng túng
đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào
ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người
nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu,
lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm…
Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở
đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp
tiếng gõ bàn thúc giục. Anh nắm chặt hai bàn tay
tôi, chỉ nói được một câu: Anh sẽ về
đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu,
đừng lo nghe, cám ơn em … đã quyết đợi
anh về… Rồi anh nghẹn ngào…
Tôi bị ngăn lại
ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy đại theo
cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc . Tôi ôm
cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới
hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng
tiếng khóc. Anh ngoái đầu nhìn lại hoài,
bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một
bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…
Sáng hôm sau tôi như
người mất hồn. Các chị bạn cũng
chẳng hơn gì . Mây chị em và bà bác dắt díu
nhau ra, mới biết không được về lối
cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai
chục cây số nữa để trở lại chỗ
ngã ba Nam Phát.
Đường xuyên
rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh
chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi
mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần
mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng
giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ
dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi
bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị
cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ
con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng
hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc
đường mua được mấy cây mía, tôi róc cho
các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc
lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ
em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời
trong lúc chiều cứ xuống dần.
Đám người lang thang
trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền
đất không một chút tình thương. Ai cũng
lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm
tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như
muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại
xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ,
lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết
sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ
mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng
hái tiến bước. May sao, đến hơn 6
giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở
lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe
ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe
đò ra Thanh hóa.
Đám người ngồi
bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới
có một xe chất đầy người chạy qua,
nhưng đều chạy thẳng, không ngừng.
Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao
mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền
trời đêm đầy sao như một pho tượng
thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ
đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu
đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm
đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm
lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà
bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi
với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi
nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt
vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường
đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần
tưởng đã văng xuống đất. Ra
đến Thanh hóa là hai giờ sáng. Các chị đi
thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm
hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao
mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.
Vé về Nam không có, phải
mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở
về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ,
mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các
chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo
chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy
những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà
các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California.
Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là
“các ông cải tạo” như người miền Nam
vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt
với những người tù hình sự. Cho nên danh
từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà
người ta hiểu với nhau, không còn giữ
được nguyên cái nghĩa mà nó được
đặt cho vì mục đích chính trị xâu xa.
Ngủ lề
đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì
gần nhau thấy ấm hẳn tình người
đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò
chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt,
người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm
con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình
ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh
nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt…
Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc
động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn
nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả
đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi
dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy
mặt chồng tôi lần nữa…
…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà... khóc ngất. Anh cười sang sảng:
- Cái chị này chỉ
được cái khóc là giỏi thôi, phải động
viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ … Hà
hà...
Các chị em tôi từ
Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa
xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội.
Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….
Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…
MINH HÒA (Virginia)
(Nguồn: Kính Nguyễn chuyển tiếp thunhan1-2@yahoogroups.com)