Truyện ngắn:
Cái Nốt Ruồi
Kim đồng hồ đeo tay chỉ đúng 1 giờ 10.
Thế là lớp học đã bắt đầu được
10 phút. Lại trễ nữa! Nhìn về phía cánh
cửa đang mở rộng của giảng
đường Hội Hữu của trường Văn Khoa, tôi tần ngần
không biết có nên vào
lớp hay không. Chẳng lẽ "cúp cua" thêm
một bữa? Tôi đã trốn lớp mấy
ngày rồi vì cái tội la cà các quán cà phê nên tới
trường trễ. Tôi ngần ngại
không muốn ngất ngưởng đi vào lớp một mình, một phần
vì thấy kỳ kỳ và
một phần sợ bị thầy nhớ mặt và ghi tội, một điều hơi phiền
toái nếu phải thi
vấn đáp vào ngày cuối khóa . Tuy nhiên nếu bỏ học nữa thì cái
lương tâm
bèo nhèo của tôi sẽ bị cái hàm răng giả của nó cắn ... nhột không
chịu
được. Hơn nữa, nghỉ nhiều thế thì không biết bài vở sẽ ra làm sao . Các
Đại
Học miền Nam hồi đó rất thiếu giáo sư và thường thường một số thầy phải
"chạy" trường. Các Đại
Học cố gắng sắp xếp thời khóa biểu làm sao để các
thầy chỉ tới trường vài lần
trong mỗi lục cá nguyệt. Mỗi lần như thế, các
thầy đều ở lại nhiều tuần liên
tiếp, dạy dồn dập mỗi ngày nhiều giờ cho hết
chương trình. Vì thế, chỉ cần cúp
cua một ngày là sinh viên sẽ lội bì bõm cho
đến cuối khóa . Do đó, tôi bèn
nghiến chặt răng, đầu cúi thấp, nhẹ nhàng
bước vào lớp và ngồi vào hàng ghế
trống cuối cùng. Tôi nhìn lên bục, thầy
đang hăng hái giảng bài và hình như
không chú ý đến tên sinh viên đi trễ.
Tôi thở phào nhẹ nhõm, và bắt đầu láo
liên cặp mắt quan sát các hàng ghế
chung quanh. Hầu hết mọi người đều chăm chú
nghe giảng bài và tôi chỉ
thấy được phía sau hay cùng lắm là một bên khuôn mặt của mỗi người.
Tôi bỗng như chạm vào đường dây điện cao thế khi ánh
mắt quét tới
hàng ghế bên cạnh. Người con gái, mặt mày nghiêm trang lạnh lùng
như
một bức tượng bằng thạch cao, mắt nhìn thẳng về phía bục giảng bài, chăm
chú theo dõi lời thầy. Tôi quả là không nói ngoa khi bảo rằng khuôn mặt
của cô
gái giống như bức tượng. Tôi chỉ thấy được phần nghiêng của khuôn
mặt vì thủy
chung nàng không hề quay về phía tôi, dù chỉ là trong một vài
giây ngắn ngủi.
Nét mặt nhìn nghiêng thật là thanh tú với sống mũi cao và
thẳng nằm ngay dưới
một khuôn mắt mang nhiều nét Tây phương. Làn môi
không dày không mỏng được khép
một cách hờ hững, và khóe miệng về
phía tôi hơi nhếch lên một tí. Và đặc biệt
nhất, ngay trên khóe miệng đó, có
một cái nốt ruồi to gần bằng nửa hạt đậu đen.
Vì không nhìn thẳng đuợc
khuôn mặt cô gái nên tôi không thể biết được là nốt
ruồi đó làm tăng hay
giảm sắc đẹp của "bức tượng". Mặc dù thế, nhìn
nghiêng, cái nốt ruồi cộng
thêm cái khoé mép hơi nhếch lên và cái sống mũi thon
nhỏ có một sức
quyến rũ thật là mãnh liệt. Và do đó, thay vì nghe thầy giảng
bài, đầu óc
của tôi lúc nào cũng gởi trọn về khuôn mặt bên cạnh, trong khi bên
ngoài
vẫn làm ra vẻ chăm chú nhìn về phía trước. Thỉnh thoảng tôi giả bộ ngọ
nguậy uốn mình cho đỡ mỏi lưng và liếc nhanh về phía trái, chỉ đủ để thấy
cái
nốt ruồi đậm màu trên một làn da trắng bóc, nằm chênh chếch trên bờ
môi mọng
đỏ. Ôi, màu sắc sao mà hoà hợp một cách lạ kỳ. Chưa bao giờ tôi
thấy ba màu đỏ,
trắng và đen đi với nhau một cách tuyệt diệu như thế! Tất
cả lại lồng trong ánh
nắng chiều xanh như màu nước chè tươi của mùa thu
Dalat. Trời ơi, không lẽ
Thiên đàng lại ở trong lớp học nhỏ bé này sao ? Tôi
bần thần theo dõi một cách
kín đáo người hàng xóm "Trời cho" này. Trước
mặt nàng, cuốn sách mở
sẵn trên bàn được đều đặn lật qua trang mới, đi
rất sát với lời giảng của thầy,
mà cô nàng thủy chung không cần liếc xuống
nhìn vào sách. Tôi thầm nghĩ trong
bụng rằng cô bé này giỏi thật, và cũng
bắt chước nàng lật sách như một cái máy.
Hễ nàng lật là tôi lật, mặc dù
chẳng biết, và cũng chẳng thắc mắc, mình đang ở trang nào.
Khi tan lớp, vào khoảng 5 giờ chiều,
nàng là người rời lớp học sau
cùng. Tôi ra trước và phất phơ đứng hút thuốc
ngoài sân, mục đích là sẽ lẽo
đẽo theo sau để tìm xem "hang cọp" ở
chỗ nào . Cuối cùng cái bóng áo dài
trắng thướt tha cũng rời lớp và thong thả
đi về hướng nhà thờ Năng Tĩnh.
Nàng hình như không hề biết là có một gã đầu
trâu mặt ngựa đang dở trò
trinh thám theo sau . Nàng đi thẳng vào nhà nguyện,
và ... dĩ nhiên tôi cũng
vào theo . Nàng tiến đến gần bàn thờ và quỳ ngay hàng
ghế đầu tiên trước
cung thánh. Tôi chỉ dám thu mình trong chiếc ghế cuối góc
nhà thờ để nhìn
lên, không có can đảm tiến tới phía trước. Không hiểu tại sao
mỗi khi "định
mệnh run rủi" tôi phải vào nhà thờ, tôi chỉ thấy thoải mái khi được ngồi ở
hàng
ghế sau cùng vì, thú thật, mỗi lần nhìn lên Chúa trên cây Thánh Giá
tôi thấy
ngài ngại làm sao, có lẽ do mặc cảm rằng mình là kẻ ngoại đạo và
tự cảm thấy
mình quá ư là bê bối . Nàng quỳ im lìm, đầu hơi cúi xuống. Mái
tóc kiểu Sylvie
Vartan màu đen tương phản với màu trắng của chiếc áo dài.
Ánh sáng lờ mờ do tia
nắng chiều èo uột xuyên qua những khung kính đục
rơi lên trên hàng ghế nàng quỳ
tạo thành một bức tranh đen trắng lung linh
huyền ảo . Nàng miệt mài cúi đầu
cầu nguyện, mặc thời gian trôi qua một
cách chậm rãi đến sốt ruột. Đúng là Trời
hại tôi, "bức tượng" của tôi chẳng
những có đạo mà còn là một con
chiên quá sức ngoan đạo ! Than ôi, số tôi
thật là khổ! Điệu này lại phải mất
công đi làm quen một vị linh mục hay một
vị nữ tu nào để xin học đạo . Cái món
giáo lý coi bộ hơi khó nuốt đối với tôi .
Trong suốt thời gian gần chục năm nội
trú ở trong một trường đạo, tôi chỉ
nhớ được có mỗi một điều là Đức Chúa Trời
có 3 Ngôi, còn 3 Ngôi như thế
nào thì mù tịt. Nếu bị hỏi ép quá thì đành giở
trò bài bây: ngôi thứ nhất là
"Mỏa" , ngôi thứ hai là "Toa" và ngôi thứ ba là "Lũy" ...
Nhìn đồng hồ tay đã thấy gần 7 giờ tối
mà "bức tượng" vẫn không
nhúc nhích, tôi đành phải bấm bụng rời nhà
nguyện để tới quán ăn cơm
tháng cho kịp vì không muốn phải mất ngủ vì bao tử
trống không. Với cái
lạnh của đêm khuya Dalat, cảm giác đói bụng không phải là
một điều dễ
chịu, mặc dù đối với những sinh viên nghèo như tôi, cái cảm giác
này đã trở
thành một người bạn thân thiết.
Và từ đó trong vòng bốn tuần lễ liên
tiếp, ngày nào tôi cũng tới lớp,
ngồi hàng ghế cuối cùng, sau "bức
tượng" một hàng, lén lút chiêm ngưỡng
trong thầm lặng cái nốt ruồi tai
hại, và khi tan lớp lại lếch thếch đi theo
nàng lên nhà nguyện. Nhiều lúc tôi
cũng có ý muốn bước nhanh lên để gợi
chuyện làm quen, nhưng khi thoáng liếc qua
gương mặt lạnh như ly cà phê
sữa đá trong một buổi sáng Dalat, bao nhiêu can
đảm đều theo khói thuốc
Bastos Quân Tiếp Vụ bay lên nhập vào đám mây dày đặc
của bầu trời thu
xám xịt. Và ngày nào cũng như ngày nấy, đến giờ cơm tối nàng
vẫn còn gục
đầu cầu nguyện, tôi lại đành phải thầm tạm biệt nàng để đi săn sóc
cái bao
tử lép kẹp của mình. "Thương em thì thương rất nhiều" nhưng
"anh phải
sống", em ơi !!!
Bạn bè tôi nhiều người ngạc nhiên khi
thấy tôi lên nhà thờ mỗi buổi
chiều sau lớp học mà không hiểu nguyên do . Tôi
nhủ thầm thật là may mắn
khi cái lũ quỷ sứ này không phát giác ra mục tiêu của
sự theo đuổi của tôi .
Chỉ cần một đứa biết thì cả đám ôn thần dịch vật này sẽ
làm rùm beng lên,
thậm chí còn có đứa dám tìm cách gài bẫy để tặng cho tôi
nhiều cú đau đớn.
Vì biết thế, nên tôi càng cẩn thận hơn không dám theo nàng
quá sát và
cũng không dám liều lĩnh làm quen. Một điều làm tôi ngạc nhiên là
hầu như
trong lớp, ngoài tôi ra, không ai để ý đến nàng cả. Có thể là quan niệm
về
thẩm mỹ của tôi khác với mọi người, hay là mắt mũi của tôi kèm nhèm
chẳng
nhận ra được nỗi lòng thầm kín của những kẻ chung quanh. Không
tìm được câu trả
lời thỏa đáng, và cũng không dám tâm sự cùng ai, tôi đành
bỏ không thèm thắc mắc thêm làm chi cho mệt xác.
x
x x
Hôm nay là ngày cuối cùng của khóa học.
Trên đường tới lớp, tôi tự
nhủ chiều nay thế nào cũng phải gợi chuyện với nàng
cho bằng được, sống
chết gì cũng phải làm cho cóc mở miệng. Đây là cơ hội cuối
cùng. Nhưng khi
bước vào lớp, tôi choáng váng như bị ông thợ rèn gần nhà nện
cho một búa
vào đầu: nàng không có mặt trong lớp! Điều này có vẻ không ổn tí
nào.
Ngày học cuối thường là ngày quan trọng nhất vì các thầy đều cho biết
những chi tiết liên quan đến kỳ thi cuối khóa. "Bức tượng" đã có mặt
trong
tất cả các buổi học, mà lại vắng mặt ngày hôm nay, đó là điều tôi không
thể
tưởng tượng được. Suốt mấy tiếng đồng hồ, tôi như người mất hồn, không
biết
và không nhớ được một lời nói nào của thầy . Quanh đi quẩn lại trong
óc cũng
chỉ có ba điều: nốt ruồi đen, bờ môi đỏ và màu da trắng mà thôi .
Tôi cứ lẩm nhẩm mãi một câu hát không biết nhặt được từ một xó xỉnh tối tăm nào của mấy quán cà phê: "Em ơi, bây giờ em ở nơi đâu..."
Vừa tan lớp, tôi tức tốc chạy lên Năng
Tĩnh. Nhưng than ôi! Nhà
nguyện hoàn toàn trống trơn, chỉ có Chúa nhìn tôi và
tôi ... không dám nhìn
Chúa! Vắng nàng, cung thánh bỗng rộng mênh mông và lạnh
lẽo như hồn
người trinh nữ bên hồ Than
Thở trong buổi chiều đông. Tôi gục đầu vào
lưng hàng ghế trước, đầu óc trống
rỗng . Mắt nhắm lại, tôi cố hình dung lại
trong đầu khuôn mặt lạnh như tiền của
nàng và cái nốt ruồi yêu dấu nằm
trên khóe môi được nhếch lên một cách ngạo
nghễ. Đang nhắm mắt lơ mơ,
tôi bỗng có cái cảm giác là tôi không phải là người duy
nhất trong nhà
nguyện. Ngẩng đầu lên, tôi chợt thấy nơi hàng ghế đầu tiên, chỗ
nàng
thường quỳ trong mấy tuần qua, hình bóng của một vị nữ tu trong bộ áo
dòng
đen và tấm khăn che đầu phủ xuống ngang lưng. Tôi bàng hoàng tự
hỏi, chẳng lẽ
đó lại là nàng! Phi lý, nàng không thể là một nữ tu được, tôi
không muốn thế!
Vì chỉ thấy được phía sau lưng, nên tôi không biết hư thực
ra sao . Nhưng cái
tư thế quỳ, cái dáng đầu hơi cúi xuống sao mà giống
quá. Dù trong lòng xốn
xang, nhưng tôi không dám đường đột đi lên gần
cung thánh để nhìn mặt. Giá chi
đừng có bộ áo dòng thì khung cảnh sẽ y
hệt như mấy tuần qua: một người con gái
nghiêm trang quỳ cầu nguyện ở
phía trên, và một chàng trai cuối nhà thờ ngồi
nghĩ hươu nghĩ vượn... Và
cũng như cũ, gần 7 giờ tôi lại phải luyến tiếc rời
nhà thờ để đi lo phục vụ cho
cái bao tử lép kẹp của tôi .
Thế rồi cái điệp khúc này được lặp
đi lặp lại mỗi ngày sau đó. Không
biết tôi bắt đầu biết cầu nguyện từ lúc nào,
nhưng một hôm tôi chợt bắt
gặp mình đang lẩm bẩm: "Lạy Chúa, xin cho con
được gặp lại nàng và nhất
là cho nàng đừng phải là bà Soeur! Chúa muốn con làm
gì, con cũng sẵn
sàng làm hết, trừ việc ... bắt con đi tu ."
Một ngày kia, có lẽ vì thương tình
hay vì quá mệt mỏi với lời cầu xin
bá láp của tôi mà Chúa đã động lòng trắc ẩn.
Mới vào khoảng 5 giờ, vị nữ tu
đã đứng dậy, làm dấu Thánh giá và quay người đi
ra . Trong ánh nắng ảm
đạm của buổi chiều Đại học, tôi bỗng nhận ra khuôn mặt
quen thuộc. Cả
người tôi như đóng băng. Chẳng lẽ đó là "nàng" thật ư
? Quả là tai hại bạc
triệu . Còn đang bàng hoàng, thì "nàng" đã đi
ngang, và ... Chúa ơi, "nàng"
nhìn con và mỉm cười gật đầu chào !!!
Không biết cái cảm giác được lên
Thiên đàng như thế nào, nhưng tôi dám chắc là
không thể hơn được nỗi
sung sướng của tôi lúc đó. Nếu có ai hiện diện nơi đây,
họ sẽ phải phì cười vì
cái bản mặt ngờ nghệch và lơ láo của tôi, vốn dĩ đã xấu
xí và đần độn hơn
người . Như cái máy, tôi đứng bật dậy và lẽo đẽo đi theo
"nàng". May quá,
không gặp bất kỳ ai trên đường.
Vừa qua khỏi quãng đất trống trước
nhà thờ và đến đầu con đường
dốc nhỏ trải nhựa nằm giữa giảng đường Hội Hữu và
Thư Viện, "nàng"
đứng lại chờ tôi . "Nàng" quay nhìn tôi,
ánh mắt hơi ngời lên một tí tinh
nghịch, và nhẹ nhàng bảo:
- Có lẽ là anh lầm tôi với chi. Thanh!
Tôi ngơ ngác lẩm nhẩm trong miệng
hai chữ "chi. Thanh" và quan
sát kỹ khuôn mặt của người đối diện.
Cũng khuôn mặt trái soan đó, cũng
cái mũi nho nhỏ thanh tú đó, cũng bờ môi thắm
đỏ và hơi cong lên ở bên
mép... Nhưng kìa, ơ hay ...
Như đoán được ý nghĩ của tôi, vị nữ tu giải thích:
- Nhiều người cũng lầm tôi với chi.
Thanh như anh. Chúng tôi là hai
chị em ruột, và giống nhau như hai giọt nước,
chỉ khác nhau có một điểm là
chi. Thanh có cái nốt ruồi trên mép phải.
Quả thế thật, trên da mặt mịn màng
của vị nữ tu tôi không thấy một
cái nốt ruồi nào cả. Thật là bé cái lầm. Trong
sự ngỡ ngàng bối rối, tôi lại
cảm thấy lóe lên một tia hy vọng nhỏ: biết đâu
Thanh không có đi tu, và chỉ
có cô em này làm Soeur mà thôi! Nhưng niềm hy vọng
của tôi không kéo dài
được lâu . Vị nữ tu kể tiếp:
- Hai chị em chúng tôi là con của
một ông trùm xứ tại một họ đạo di
cư gần Ban Mê Thuột, và đều đi tu tại dòng
Mến Thánh Giá ở trên tỉnh. Chị
Thanh được nhà dòng gửi tới đây đi học, và chị
ấy đã trở về lại nhà Chúa .
Chị có nói chuyện với tôi ... về anh.
Tôi giật mình. Chết chửa, thế mà cứ
tưởng là "nàng" không biết
những chuyện ruồi bu của tôi .
Vị nữ tu lại lém lỉnh nói tiếp:
- Chị Thanh nhờ tôi nhắn với anh
là ráng quên chị ấy đi và cố gắng
học hành vì ngày thi sắp đến và nếu anh trượt
thì sẽ bị đi lính đấy. Chị nhờ
tôi tặng anh một tấm hình của chị để anh cầu
nguyện cho chị mỗi khi nhớ
đến chị.
Tôi thẫn thờ cầm lấy tấm ảnh đen
trắng vị nữ tu trao cho, và chua
xót nhìn khuôn mặt của người đẹp của tôi đang
tươi cười trong bộ áo dòng
ủi thẳng nếp ngày khấn tạm. Hỡi ơi, khuôn mặt đó, bờ
môi đó, và cố nhiên
cái nốt ruồi thân yêu đó... tất cả sao mà xa xôi cách trở.
Tôi lí nhí nói lời
cám ơn và vội vàng nhét bức ảnh vào túi áo blouson khi nhác
thấy mấy
thằng bạn trời đánh của tôi đang từ phía Thư Viện đi tới. Chúng cố
tình đi
ngang chỗ tôi đứng nói chuyện với vị nữ tu, nhìn phớt qua hai đứa, cất
tiếng
cười khúc khích với nhau và nháy mắt với tôi một cách rất ư là đểu giả.
Vị nữ
tu vẫn tỉnh bơ làm như không để ý đến, mỉm cười nói lời từ biệt và đi về
hướng cổng Viện. Tôi đứng đó ngơ ngác nhìn theo cho đến khi bóng dáng
chiếc áo dòng đen đã khuất sau lưng giảng đường Minh Thành.
Tôi lang thang quanh khu Năng Tĩnh
một lúc rồi tất tả trở về cái
phòng trọ lạnh lẽo ở đường Hàm Nghi . Việc đầu
tiên khi vào phòng là lôi
tấm hình ra ngắm nghía và kẹp cẩn thận vào giữa cuốn
Thánh Kinh trên
bàn trước khi đi ăn tối. Cuốn Thánh Kinh này do một thằng bạn
vừa mới
theo đạo Tin Lành tặng cho tôi, với mục đích dụ tôi theo đạo của hắn.
Mỗi
lần gặp mặt là hắn cứ bảo tôi phải đọc cuốn sách này. Tôi cũng ráng chiều ý
bạn nhưng chẳng bao giờ đọc hết được một trang trước khi hai mí mắt sập
xuống.
Sau này bị hắn thúc quá, tôi bèn nổi quạu và bảo hắn: "Sách gì mà
đọc chán
thấy mồ tổ, thua truyện Kim Dung xa . Thế này mà mày cứ bắt
tao đọc hoài thì
làm sao tao đọc được. Hôm nào rảnh, tao sẽ đem trả cho
mày để mày cho người
khác!" Từ đó tôi ít có dịp gặp lại
hắn và cũng quên
chưa trả lại cuốn sách. Đó là lý do tại sao một kẻ ngoại đạo
như tôi lại có
cuốn Thánh Kinh nằm trên bàn học.
Vừa bước chân vào quán ăn, thì cả đám
lâu la đã chờ sẵn và thi nhau
pháo kích:
- Ối giời ơi, cái thằng ông nội này
hết chuyện làm rồi hay sao mà lại đi
tán tỉnh kẻ tu hành như thế này ...
- Ê con trai, coi chừng xuống Hỏa ngục đó con ạ ...
- "Khen cho con, mắt tinh đời"! Em đẹp như Ma Xơ, cắc cắc bùm ...
- Cái nốt ruồi trên mép quả đáng đồng tiền bát gạo ...
Tôi giật bắn mình. Cái nốt ruồi?
Làm gì có cái nốt ruồi ? Không biết
thằng này đào đâu ra cái ý tưởng về cái nốt
ruồi . Chẳng lẽ chúng nó biết
mình lẽo đẽo theo sau nàng từ trước mà đến giờ
này mới nói ? Tôi cứ loay
hoay mãi với ý nghĩ này thành ra không biết sau đó
chúng nó còn tung ra
những điều gì tệ hại hơn nữa .
Cắm đầu cắm cổ nuốt vội vàng cho
xong phần ăn, tôi bay về nhà trọ,
để nguyên áo quần leo lên giuờng nằm thừ ra
suy nghĩ. Tôi ôn lại trong đầu
từng lời
của cô nữ tu . Không biết cố ý hay vô tình mà vị nữ tu đã cho tôi
biết những
chi tiết thật là đáng giá: ông bố làm trùm xứ một họ đạo di cư,
hai chị em đi
tu ở nhà dòng Mến Thánh Giá Ban Mê Thuột... À, tại sao mình
không điều tra thêm thử xem sao . Tôi chợt nhớ ngay đến
Hoa, cô em họ
của tôi . Hoa là con của bà dì ruột tôi, chơi rất thân với tôi
lúc nhỏ. Lớn lên,
Hoa lấy chồng Công giáo, và theo chồng về ở họ đạo Hà Lan B
thuộc giáo
phận Ban Mê Thuột. Tôi có thể nhờ Hoa điều tra giùm về hai chị em
Soeur
Thanh (Trời ơi là Trời, chữ
"Soeur" đọc lên nghe đau lòng quá!). Tôi hy
vọng là cùng đạo với
nhau, Hoa có thể cho tôi nhiều chi tiết hữu ích về hai
"người đẹp"
này. Tôi hăng hái choàng ngồi dậy, viết một lèo xong bức thư
cho Hoa, chạy qua
bà chủ nhà mượn con tem và ba chân bốn cẳng bay ra
Bưu điện tống ngay vào thùng thư chính.
x
x x
Nắng chiều buồn như cỏ úa . Tôi uể
oải rời nhà thờ mà lòng mềm oặt
như cuộn bún thiu. Con đường trở về nhà trọ sao
mà lê thê và những tuần
lễ chờ đợi sao trôi qua quá chậm chạp. Mỗi buổi chiều
tôi đều lên Năng
Tĩnh, với hy vọng mong manh là được gặp lại "Cái Nốt
Ruồi" hay em gái
nàng. Nhưng than ôi, bóng chim tăm cá! Tôi đâm ra thù cái
ông thi sĩ Tàu
vớ vẩn nào đó đã nói một câu rất ư là vô duyên lãng xẹt:
"Giai nhân nan tái
đắc". Điểm an ủi duy nhất cho tôi là quý Cha và
Frères, mà tôi xui xẻo gặp
mặt ở trong khuôn viên nhà thờ, càng ngày càng tỏ ra
có cảm tình với
thằng bé "ngoan đạo"! Các ngài đâu có biết rằng người
mà thằng bé tìm
gặp là "nàng", chứ không phải Chúa của các ngài . Tuy
thế, tôi vẫn phải
luôn làm mặt tươi cười để đáp lễ lại những cái nhìn khuyến
khích và khen
thưởng của các ngài . Tôi nghĩ thầm trong bụng rằng phải chi các
Cụ cầu
nguyện Chúa cho tôi được gặp lại "nàng" thì có phải là quý hoá
hơn không!
May quá, các ngài không thấy được ý nghĩ này trong cái đầu đen kịt
của
thằng quỷ sứ!
Về đến nhà, sắp mở cửa phòng trọ
thì tôi nghe tiếng gọi của bà chủ
nhà:
- Cậu Văn ơi, có thư .
Nhìn thấy tên người gửi là cô em họ
tôi từ Ban Mê Thuột , tôi mừng
rơn, còn mừng hơn cả lúc nhận được mandat từ nhà mỗi đầu tháng. Chạy
vội về
phòng, khóa kín cửa lại, tôi xé vội phong bì và đọc ngấu nghiến bức
thư của Hoa dưới ánh đèn điện vàng vọt của phòng trọ:
Ban Mê Thuột ngày ...
Anh Văn mến,
Sau đây là những chi tiết về Soeur Thanh mà anh đã hỏi em:
Em rất thân với gia đình Soeur Thanh.
Bác Trùm Xuân, bố của Soeur
Thanh, là ông bác họ của nhà em. Bác được gọi là Ông Trùm, vì bác
ấy đã
từng là Trùm Xứ của họ đạo Hà Lan
A, cách họ đạo Hà Lan B của em không
mấy xa. Không hiểu sao anh lại nói gặp em
gái của Soeur Thanh, vì
bácTrùm chỉ có một người con duy nhất là Soeur Thanh mà thôi ...
Tôi giật nẩy mình, linh cảm có điều
gì hơi bất thường. Sau ít giây sững
sờ, tôi đọc tiếp:
... Bác Trùm cho Soeur Thanh đi tu ở
Dòng Mến Thánh Giá Ban Mê Thuột
từ khi Soeur được khoảng 12 tuổi. Đến năm 18
tuổi, Soeur đậu Tú tài II.
Sau khi vào nhà tập khoảng một năm và sau khi khấn
tạm, Soeur được nhà
Dòng gửi đi học ban Cử nhân Triết tại Viện Đại Học Dalat
của anh đó. Em đã
được gặp Soeur rất nhiều lần. Soeur rất đẹp và dễ thương. Đặc biệt nhất
là cái nốt ruồi trên khoé môi của Soeur làm cho Soeur hết sức có duyên.
Cách đây mấy tháng (vào khoảng đầu tháng
Mười), bác Trùm gái bỗng
nhiên đau nặng, sợ không qua khỏi, nên Soeur phải lật
đật rời Dalat để về
thăm mẹ lần cuối. Không ngờ trên đường về nhà, xe đò bị
trúng mìn gần
Ban Mê Thuột và tất cả mọi người trên xe đều tử nạn ...
Trời ơi! Tôi bàng hoàng buông tờ thư,
ngồi phịch xuống thành giường,
hồn xác tê dại . Tôi cố nhớ lại, đầu tháng Mười
chính là lúc tôi nhìn thấy
Soeur Thanh lần đầu tiên trong lớp học. Chẳng lẽ ... Tôi từ xưa vốn không
tin chuyện
ma quỷ, nhưng giờ đây tự nhiên cảm thấy xương sống hơi lành
lạnh. Đang lơ mơ
thì cánh cửa phòng trọ, mà tôi nhớ đã khoá lại sau khi
vào, bỗng dưng tự động
mở ra . Không biết có phải là do thần hồn nhát
thần tính hay không mà tôi có
cảm giác mình vừa thoáng thấy một bóng
đen vụt ra khỏi cửa và tan dần vào trong
những tia nắng xanh xao của
buổi chiều đông Dalat.
Và chợt như do linh tính, tôi chồm
tới bàn học, chụp vội cuốn Thánh
Kinh , mở ra để tìm tấm ảnh. Tấm ảnh vẫn còn
đó, nhưng bây giờ... đã
thành một tờ giấy trắng. Khuôn mặt của người trong ảnh,
mà tôi còn thấy
rõ ràng ngày hôm qua, đã hầu như hoàn toàn biến mất. Tất cả chỉ
còn lại
một chấm tròn đen nho nhỏ nằm ở vị trí cũ của cái nốt ruồi duyên.
Trần Văn Lương,
Cali, 12/2005