Truyệ̣n ngắn:
KHI TU HÚ KÊU !
Nguyễn Quang Tuyến
Ông
ngoại phe phẩy quạt như cùng nhịp với
chiếc võng đong đưa trên bộ ván, tay
ông cầm chiếc dây gai kéo nhẹ nhẹ, không gian như
giãn ra, uể oải theo tiếng kọt kẹt đều
đều. Buổi chiều hè thư thả bước
trong nắng oi ả, thảng hoặc một chút gió
nồm rười rượi mát vỗ vào ngạch
cửa – Hình như mọi thứ đều riu riu,
ngờm ngợp, đong đưa đánh võng, thiêm
thiếp đợi chờ cái nắng sẽ ngủ yên
trong đêm dịu mát, đợi chờ từng
đợt gió theo trăng lùa tuột qua sông Trường
Giang, chạy dài qua các bãi cát bồi nóng hừng hực
như chảo lửa ở ven sông.
Ông ngoại trở mình, quay chuôi
quạt đưa ra sau lưng cào cào vết ngứa,
lớp da đồi mồi nhăn nheo của ông hằn
dấu võng dây gai hình thoi; mồ hôi nhơn nhớt rịn theo sống lưng xương xẩu. Tôi
trở mình trần trên tấm ván rìn rịn mồ hôi, trên
vách nan tre dưới mái tranh, ông
ngoại treo mấy tấm tranh vẽ chuyện Tam
Quốc. Nếu không vì mấy bức vẽ này thì giờ
này tôi đã loanh quanh ngoài vườn xem mấy con chào mào
rúc rích tìm mấy trái duối chín vàng hườm … Ông
ngoại muốn giữ chân tôi nên ra giá, nếu tôi nằm
yên, không lang thang ngoài nắng, ông sẽ kể tiếp
bức tiếp sau cái cảnh Tào tặc giết Bá Xa. Tôi
cứ nhìn bức tranh ở ô thứ hai, cảnh Bá Xa
tất tả đi mua rượu về gặp Tào Tháo và
Trần Cung dọc đường, chợt giọng ông ngoại
khề khà :
- Giận là
giận Tào tặc đa nghi! Thương là thương cái
tình của Bá Xa nhân hậu! - Hỡi ơi, bởi
thương bạn tương lân mà cả nhà bị phanh
thây! Bởi cảm cái nghĩa đồng hương mà
bị nạn đao kiếm!
Ông ngoại
vốn là thầy khóa, sách chữ nho đầy kệ, ông đọc
sách luôn lên giọng ê a, khi kể chuyện ông luôn luôn có cách
nói văn biền ngẫu, có xướng, có đối, có
âm lên, âm xuống … Đã bao năm qua, tôi không bao giờ quên
được giọng kể chuyện của ngoại,
và có lẽ, nó đã một cách vô thức dẫn dắt
cuộc đời của mình.
- Ông ơi,
còn cái hình này, có Quan Công ngồi trên lưng Xích Thố, tay
cầm thanh long đao cúi xuống đưa mũi đao
vào tấm bào do một người quỳ dâng và một
đám người ngựa lố nhố đối
diện …
Ngoại
giật mạnh dây cho võng đong đưa, tóc và râu ông
bạc trắng như ông tiên, ông quạt phành phạch :
- Cái lão cỡi ngựa xám, mặt trắng mắt lươn là Tào tặc, cái tên râu xoắn mắt trợn trừng là Hứa Chữ …. Quan Công ngài oai phong trên lưng Xích Thố, sau lưng là nhị tẩu trên xe lúc bôn đào … Tào tặc tặng cẩm y khi ngài đưa nhị tẩu tìm về Lưu Bị.
- Ông ơi,
sao truy đuổi mà còn tặng cẩm y?
Ngoại
chắt lưỡi trầm ngâm :
- Tào tặc trí hơn
người! Dã tâm khó lường, đã nhận cẩm y
thì mới ra cái cảnh Tào ngàn lạy kể công ơn và …
Quan Công tha Tào tặc ở Huê Dung Đạo sau này!
Ông không nói
thêm, trời nóng ủ ê, tôi lơ mơ nhìn hình dáng oai phong
con Xích Thố như muốn cuộn vó tung trời … Cái nóng
hầm hập, nhơn nhớt mồ hôi làm cho mọi
cử động đều dư thừa, chút gió nồm
dưới sông lùa lên mỏng tanh như tiếng lách tách khe
khẽ của tàn lá dừa bên hiên.
Chợt
tiếng chim tu hú từ vườn cây hàng xóm như đánh
thức; tiếng kêu như tiếng kiểng báo động : “Tu hú! Tu hú!”
đều đều gõ nhịp âm thanh, xắt lát buổi
chiều êm ả ra từng lát mỏng.
Tiếng
võng kêu kọt kẹt, đều đều …
Ngoài
vườn tiếng chim tu hú kêu đổ hồi
: Tu hú! Tu hú! Tiếng kêu vang lên khô khốc kèm theo là tiếng chim chèo bẻo đuổi theo
kêu chen chét ở bờ tre. Loại chim này không
kêu nhiều, “Tu hú! Tu hú!”, cụt
ngủn năm mười tiếng, sau đó là hàng loạt
các loại chim nhao nhao kêu lên đánh đuổi. Con chim chèo
bẻo ốm nhom có chiếc đuôi đen kéo dài và rẽ
chéo như đuôi cá, đậu vắt vẻo trên ngọn
tre cao cứ chen chét kêu, như một
trinh sát báo động có địch. Chim tu hú
màu đen như quạ, to con hơn chim sáo sậu, với
đuôi dài đen nhánh như tà áo khoác của mụ phù
thủy. Nó chẳng bao giờ đậu yên có đôi
có cặp, hoặc đứng yên cất giọng kêu như
con chim cu, đầu nó cứ rụt vào nhủi núp
dưới các tàn lá, mỏ đen, mắt lóng lánh như hai
hạt cườm màu đỏ lấp ló đâu đó trong
lùm cây rậm. Chim tu hú lúc ẩn, lúc hiện, lúc kêu
đầu tây lúc đầu đông … nhiều khi không nghe
chim tu hú kêu mà chỉ nghe rộn ràng tiếng các loài chim khác
kêu vang cả góc vườn là biết đâu đó trong tàn
cây đã có chim tu hú.
Tôi nhảy vội xuống, ba chân bốn cẳng
chạy ra góc vườn sau trèo lên cây trâm rồi níu qua cành
cây gáo mà nhìn vào chiếc ổ chim cà cưỡng cheo veo ngoài
rìa cành cây gáo. Cà cưỡng hoa là giống chim mồm
miệng toe toét, dễ thương như mấy cô thợ
cấy đùa giỡn tinh nghịch ba hoa chọc ghẹo
suốt ngày. Cặp chim cà cưỡng ở
góc vườn mà hót tía lia là in như có chợ, có hội
rộn rã xôm xả cười nói của mấy cô dì
trong ngày giỗ - Rộn rã, ồn ào, xởi lởi và vô
tâm.
Cặp chim
cà cưỡng trong vườn ông ngoại là niềm vui
của cả khu vườn, nắng sớm vừa lên, là
cặp cà cưỡng bông đã nhún nhảy trên cành tre cao
vót, hót líu lo rộn ràng – Tiếng hót không hay, không thanh,
nhưng rộn như ngày mùa có tiếng gọi nhau ơi
ới chen tiếng cười vui hể
hả. Vườn cây như trở dậy,
đầy sức sống trong nắng ban mai bừng
nở với âm bô-lô-ba-la của hai vợ chồng cà
cưỡng hoa. Cặp chim cà cưỡng hoa hồn
nhiên sống, hồn nhiên líu lo suốt ngày, rún rẩy theo ngọn tre trong gió nồm. Tiếng hót
của đôi cà cưỡng hoa trong vườn ông
ngoại thật an bình, hạnh phúc
như nghe mấy chiếc đò dọc trên sông
Trường giang hò đối đáp trong đêm trăng.
Ông ngoại
nói khi tu hú kêu, là mùa cá chuồn tới, là mùa mít ra hoa kết
trái, bởi vậy : “ Ai về
nhắn với Nậu Nguồn, mít non gởi xuống cá
chuồn gởi lên”, Nậu Nguồn là người dân
tộc miền núi cao, họ đem mít non xuống
đổi cá chuồn của dân đi biển. Cứ tu hú kêu vào tháng tư, tháng năm, mùa gió nam
thổi mạnh là mùa dân biển trúng đậm cá
chuồn. Dân quê tôi gọi : “Tu hú
nó rủ cá chuồn”.
Tôi leo lên cành cây trâm, chuyền qua cây gáo,
đầu chạng ba ngoài rìa cành gáo là tổ chim cà
cưỡng bông. Cặp vợ chồng chim
cưỡng làm tổ xuề xòa bằng các que củi khô và
rơm rạ. Tổ chim to mà cực giản
đơn, mở toát tứ bề đón gió mưa, hể
hả khoe với trời đất ba chiếc trứng
màu xanh ngọc nằm gọn trên lớp đệm lông
tơ ở chính giữa cái tổ tuềnh toàng ấy. Trong
khi các tổ chim giòn giọt, chim sáo sậu, ngay cả
đôi chào mào … cũng làm tổ thật kỹ
lưỡng, an toàn. Cà cưỡng là
loại chim giản đơn cực kỳ, loại chim
sống trong thuở thanh bình : “nhà không
khóa cửa, vườn không rào dậu …”, loại chim nhân
hậu và đầy niềm tin yêu mọi loài. Tôi lên canh chừng mấy trứng chim màu xanh
ngọc của đôi cà cưỡng bông.
Ông ngoại
bảo tu hú kêu ở đâu là nó đã nhắm đến
một tổ chim nào đó để ăn
trứng và gởi trứng nhờ ấp hộ. Tu hú không
bao giờ làm tổ nuôi con, nó chỉ rình rập tổ chim
nào có sẵn, vào tổ ăn trứng
chim và đẻ vào đó nhờ chim có tổ ấp giúp con
mình. Bản năng dạy nó cách rình mò, cách tiềm phục
để gởi trứng cho người ta nuôi con. Và tu hú thích nhất là gởi trứng vào tổ
chim cà cưỡng vì cà cưỡng hồn hậu, dễ
tin.
Tôi yêu cặp cà cưỡng bông trong vườn
ngoại, tôi cứ trèo lên chạng cây canh chừng con tu hú
đen, mắt đỏ, cứ lẩn lút quanh tổ chim.
Nhìn ba trứng màu xanh ngọc nằm tràn đầy ánh sáng
giữa lòng tổ, tôi cảm thấy vui và yên tâm lạ
thường. Hai con cà cưỡng bông cũng xôn xao
đuổi cho có vẻ theo các con chim chèo
bẻo, chào mào đuổi con tu hú bay xa. Cặp cà
cưỡng lại quay về trên ngọn cây mít, cạnh
tổ chim, lí-la lí-lô hót như khoe mẻ :
“Có sao đâu! Có sao đâu!
Tổ tôi vẫn tốt! Trứng tôi vẫn đẹp!”. Nắng ban mai như nhảy nhót, như
tuôn chảy trên màu xanh bóng mượt của lá mít. Hai con
chim cưỡng, líu lo chán lại sà xuống đám
ruộng trước cổng chụp mấy con nhái bén.
Tôi tuột
xuống cây trâm chạy vào nhà, níu võng bô bô kể
:
- Con tu hú bay xa rồi ông, con chèo bẻo đánh riết, nó chúi đầu bay vào lùm bứa ở góc vườn rồi lủi đâu mất. Tổ cưỡng bông vẫn còn nguyên ba trứng.
- Chắc còn nguyên ba trứng cưỡng không con?
- Chắc mà
ông, ba trứng màu xanh ngọc nằm êm giữa tổ.
Ông ngoại
khề khà, đập nhịp chiếc quạt mo vào
lưng rồi nói :
- Tu hú nó tinh ma lắm con à, nó đẻ trứng nó vào tổ cà cưỡng sau khi hút hết lòng trắng, lòng đỏ trứng chim cà cưỡng, nó lại hất vỏ trứng chim cà cưỡng ra khỏi tổ, để chim cà cưỡng về không phát hiện được đã bị đổi trứng.
- Cà cưỡng thấy màu trứng khác mà ông!
- Chim cà
cưỡng không phân biệt được màu, nó chỉ
phân biệt được hình thể – Trứng chim tu hú
như trứng chim cút, bằng trứng cà cưỡng
nhưng màu vàng nhạt lấm chấm đen, nâu, rằn ri
… Tu hú ăn một trứng đẻ vào đó một
trứng, mấy ngày sau sẽ ăn một trứng
nữa và đẻ một trứng. Tu hú
chỉ đẻ có hai trứng thôi. Chim tu hú là một
thứ chim ma mãnh, xảo quyệt, nhiều thủ
đoạn … Tất cả tính chất đó là một
bản năng tồn tại của nó! Nó
tồn tại nhờ lừa bịp và phản phúc, hai tính
chất đó đã trở thành bản năng, khó thể
nào thay đổi.
- May quá, con leo lên xem rồi, vẫn còn nguyên ba trứng
chim cà cưỡng ông ngoại à.
Ngoại chợt thở dài, mắt nhìn mông ra
đồng ruộng.
- Khi chim tu hú đã kêu, thì ông sợ không dễ gì cản được nó. Chim cà cưỡng hồn nhiên, đơn giản quá, làm sao tránh khỏi bị lừa! Như Bá Xa trong truyện Tam Quốc, vui mừng hí hửng đi mua rượu cho Tào, rồi …
- À quên, rồi sao nữa ông?
- Ông đã kể rồi, cả gia đình Bá Xa lô la : “ Trói rồi hãy cắt cổ!”, Bá Xa đon đả : “Sao tướng công vội đi, đây là rượu ngon nhất làng!” – Một lưỡi kiếm vung lên, mấy chiếc đầu rơi rụng! Trong thế giới của Tào đâu có chỗ cho sự hồn nhiên, đơn giản của Bá Xa và gia đình! Trong tiếng kêu của tu hú đâu có chỗ cho sự nhi nhô của mấy con cà cưỡng bông! Phải vậy không nà? – Trần Cung, Dương Tu … cái đám trí thức, tham mưu hèn yếu đó thì chỉ chê bai Tào là bất nghĩa, bất tín … rồi nguyền rủa, rồi quay ngựa bỏ đi như Trần Cung; hoặc ngông cuồng bỡn cợt chữ nghĩa xỏ xiên kiểu “gân gà” của Dương Tu … Rồi được gì? Bọn họ có cản được cả ngàn cái đầu như Bá Xa rơi rụng? Họ có thay đổi được bản chất của Tào tặc?
- Rồi
Trần Cung quày ngựa bỏ đi hả ông?
Ông ngoại
tư lự :
- Như con
ngồi trên chạng cây gáo nhìn mấy trứng chim cà
cưỡng. Con nghe chim tu hú kêu, con canh giữ, con tức
giận đôi chim cà cưỡng bông ngây ngô cứ nhún
nhảy trên cành cây cao mà tụng ca : “Tổ
tôi đẹp, trứng tôi xinh, có sao đâu! Có sao đâu!”, miệng
mồm cứ tía lia, tía lia đâu có thấy cái bóng đen
đe dọa của tiếng kêu chim tu hú! – Rồi con
cũng sẽ căm tức mà nhìn, làm sao được
con! Ngày xưa ông cũng như con, tức khí
ném đá, chửi rủa mỏi mồm…
rồi đâu lại vào đấy. Nay thì ông
đã quá già…
Con chim cu
cườm gáy “túc tù cu!” nhẩn nha, thư
thả, giọt từng giọt âm thanh, buồn buồn, âm
u, dịu vợi trong chiều vàng nhạt.
*
* *
Chiều hôm sau, tôi ngủ trưa thiêm
thiếp trong cái nắng hầm hập tháng tư, thi
thoảng cơn gió nồm từ biển tạt vào, qua
động cát trắng, qua cánh đồng lúa tháng tư
mới gặt ùa vào mát dìu dịu lẫn với mùi rơm
lúa mới đánh thức mọi giác quan. Tôi
cột chặt chiếc ná dây thun với mấy hòn sỏi,
chờ đợi tiếng chim tu hú kêu, là chạy ra đánh
đuổi. Tôi tưởng tượng cái bóng đen
lủi, thậm thò thậm thụt kia
với viên sỏi tôi mân mê trong tay. Hôm nay nắng nhiều,
nên cặp chim cưỡng bông cũng ít líu la líu lo, khoe mẻ : “Tổ tôi đẹp, trứng tôi
xinh, có sao đâu! Có sao đâu!”.
Buổi
xế trưa hè miền Trung, mọi sự vật
đều tiết kiệm từng cử chỉ,
đều thiêm thiếp ru trong uể
oải. Tôi chợt giật mình, khi nghe con chèo bẻo chen chét hét toáng lên, sau đó tiếng cánh
loạt soạt và tiếng tu hú khô khốc vang lên ở
cuối vườn. “Tu hú! Tu
hú!” – Tôi ngước nhìn lên tổ chim cà cưỡng
vẫn bình an, tôi cầm ná thun chạy men theo
hàng tre già đến cuối vườn. Con tu hú đen
như con quạ, mắt như hai chấm đỏ,
nó hoác mồm ra kêu : “Tu … hú! Tu … hú!” – Nó đứng chèn giữa đám thân
cây tre, không làm sao bắn được, tôi kéo thun bắn
hú họa để xua đuổi. Con chim không bay xa,
lại đậu ở cành tre khác kêu to :
“Tu … tu hú! Tu … tu hú!”. Chèo bẻo, chào mào và
hai con cà cưỡng bông toạc mồm lên lí la lí lô, chen
chét như ngầm bảo : “Đồ
khốn! Đồ khốn! Tao giết mày! Tao biết rõ mày
thối tha! Tao ghét! Tao ghét!” – Cái âm chen
chét rát tai của hai con chèo bẻo ốm nhom, giống
như âm : “Tao ghét! Tao
ghét!” – Tôi đứng yên gườm gườm
nhìn con tu hú lì lợm giữa bụi tre gai. Nó thản nhiên
trước mọi lời chửi mắng, hằn
học của lũ chim vây quanh, nó nhủi đầu vào
giữa lùm gai và lúc lúc lại : “Tu hú! Tu
hú!”. Đôi cà cưỡng
bông hét cho lắm, mỏi mồm, rúc đầu kêu “túc!
túc!” trong cổ họng, canh chừng con
tu hú vẫn thản nhiên gằm đầu núp trong bụi
tre gai. Bỗng góc bên kia vườn, có tiếng tu hú kêu gãy
gọn hai tiếng : “Tu hú! Tu
hú!” – Con chim trong bụi tre chui ra bay về phía ấy.
Mấy con chèo bẻo, cà cưỡng lại chen
chét bay đuổi theo. Tôi quay vào nhà, đong đưa võng
kể với ông ngoại :
- Cháu
mới đuổi con tu hú đến cuối vườn,
nó lì lợm đậu giữa bụi tre gai, kêu liên
hồi. Nhìn thấy bộ lông đen óng,
đôi mắt đỏ, lúc nào cũng gằm gằm
đầu, trốn nhủi. Thật ghét, ông à!
Ông ngoại
đập quạt mo xua mấy con bồ hóng vo ve :
- Con bị
lừa rồi! Con tu hú trống kêu ở góc vườn
để dụ cho chèo bẻo và cả nhà cà cưỡng
bông đuổi theo, không để ý
đến tổ để cho con mái sẽ vào ăn
trứng cà cưỡng và đẻ vào đó! – Trời
ơi, đừng có tin con tu hú con à, nơi nó toang toác
mồm, rêu rao kêu lớn là nơi nó không làm điều ác;
nơi nó đã có ý đồ làm thì nó lại không kêu! Con ra
tổ cà cưỡng mà coi.
Tôi chạy biến ra gốc cây trâm, thoăn
thoắt lên chạng cây nhìn với ra tổ cà cưỡng.
Trước mắt tôi, hai trứng màu xanh ngọc nằm
bên một trứng rằn ri của con
tu hú. Tôi nhìn xuống đất, một
vỏ trứng cà cưỡng nằm giữa đám
cỏ. Ngực tôi như đau thắt
lại, tôi sững sờ nhìn vào tổ trứng ở mút xa
tầm với mà muốn đập chiếc trứng
lốm đốm chấm nâu đen. Tôi đã bị
con tu hú trống lừa chạy xuống cuối
vườn, cà cưỡng và chèo bẻo cũng bị
lừa vì tiếng kêu của tu hú.
Vợ
chồng cưỡng bông từ thửa ruộng bay về
đậu trên cành mít, vẫn líu lo hồn nhiên
: “Tổ tôi đẹp! Trứng tôi đẹp! Có
sao đâu! Có sao đâu!”.
Tôi tuột xuống cây, lượm vỏ
trứng xanh lơ còn ươn ướt nhơn nhớt
tròng trắng.
- Ngoại ơi! Nó ăn hết một trứng cà cưỡng bông rồi ngoại.
- Ông đã
nói mà! – Tu hú kêu ở đầu vườn này nhưng âm
thầm làm việc ác ở góc vườn kia,
bọn cà cưỡng bông và chèo bẻo sao biết hết
lòng dạ của tu hú. Khi tu hú kêu là khi đã
có ý đồ, đừng nghe nó kêu mà tưởng nó
chỉ đang ở chỗ nó kêu, sự lừa bịp
đã là bản năng của loài tu hú.
Tôi ngồi trên ván gỗ, tựa đầu vào
võng, lòng nặng như chì.
- Ông ơi, thôi đừng nói chuyện tu hú nữa, ông kể chuyện Tam Quốc đi ông.
- Chuyện
nào cũng chỉ là chuyện, ông ôn tồn nói, còn cuộc
sống thì vẫn chảy trôi thôi. Bạc
nhược như Hiến Đế, tham dâm như
Đổng Trác, thiếu quyết đoán như Lưu
Bị … mới là dòng chảy cho Tào bơi đến
đích. Người ta cứ hay chê bai Tào tàn ác,
thủ đoạn, gian manh nhưng mấy ai thấy chính
sự hèn yếu, vô tâm, hưởng thụ của mình
đã sản sinh ra Tào. Dù có bao thế hệ
mất mát, nát cửa tan nhà, thì trong tâm thức của cà
cưỡng vẫn không ghi dấu được kẻ
cựu thù là tu hú. Cà cưỡng vẫn sống
hồn nhiên, là sức sống và niềm tin đầy
ắp khu vườn, vẫn làm tổ hoang hoác mở
bốn phương, sống hồn hậu đầy tin
yêu và không nghi ngại, vẫn mấy chiếc trứng xanh
mịn màng dưới nắng sớm. Và vẫn
: “Tổ tôi đẹp! Trứng tôi đẹp!
Đâu có sao! Đâu có sao!”.
Tào vẫn
là Tào và cà cưỡng vẫn phải nuôi con tu hú mà con!
Tôi lơ mơ nằm xuống phản gỗ ngủ, tiếng kẽo kẹt chiếc võng ông, lẫn với tiếng cu cườm gáy ngoài hiên, nhàn nhạt buồn.
*
* *
Từ ngày có tiếng tu hú kêu, vườn ngoại không còn bình an nữa, khi sáng, khi chiều tiếng các loài chim chí cha chí chét đánh đuổi không thôi. Sau mươi ngày kêu bên đông, kêu bên tây dẫn dụ bầy chim vườn đuổi theo nơi này nơi khác của con tu hú trống, con mái cũng hoàn thành được nhiệm vụ bảo tồn nòi giống với hai chiếc trứng rằn ri nằm cạnh hai chiếc trứng màu xanh lơ của đôi cà cưỡng bông. Hai con cà cưỡng thi nhau ấp trứng, khu vườn ông ngoại im ắng, không còn nghe tiếng tu hú kêu. Sự êm đềm có được nhờ bởi tu hú sắp xếp xong một tương lai dưới sự ấp ủ của đôi cà cưỡng. Khu vườn chợt như đã trở lại bình an, yên vui vì đôi chim tu hú không còn kêu, đã bay đi xa; nó để cho vườn yên ả vì nó đã hoàn tất bản năng của mình. Con cà cưỡng mái xòe cánh ấp, con trống líu lo trên ngọn mít bên cạnh, chốc chốc lại sà xuống đồng đậu trên mình con trâu đen trủi bắt được một con ve căng mọng về tặng vợ. Chốc chốc lại líu lo : “Đẹp lắm! Đẹp lắm! Có sao đâu! Có sao đâu!”.
Sắp nghỉ hè, tôi thẫn thờ quanh cây gáo
nhìn lên tổ chim cà cưỡng trên đầu rìa cành, tôi
thấy xót xa thương cho sự hồn nhiên, ngây ngô
của đôi cà cưỡng.
Rồi
một buổi sáng, tôi nghe tiếng chiêm chiếp trên cao. Tôi
leo lên chạng ba cây gáo nhìn ra, khi mẹ cà cưỡng
đã bay đi kiếm ăn : bốn con
chim non đỏ hỏn gác đầu bên nhau kêu chiêm
chiếp khi nghe tiếng động. Hai con đen thủi,
mồm há rộng đỏ hỏn, hai con lông tơ
trắng mỏ vàng … bốn mỏ cùng mở rộng,
mắt nhắm nghiền, kêu chiêm chiếp chờ mồi …
Ông ngoại
bị cảm đã mấy ngày, ông không còn dòn dã kể
chuyện Tam Quốc cho tôi nghe, ông đang nằm trên võng
trầm tư. Tôi vừa đưa
nhẹ nhẹ võng, vừa phe phẩy quạt
:
- Ông ơi, ổ chim cưỡng nở rồi. Con lên xem nó nở bốn con, hai đen hai trắng xám.
- Chim tu hú sẽ trổ lông màu cú nổ, đen trắng, rồi đến ngày ra ràng biết bay, lông nó sẽ thành màu đen như cha mẹ nó. Còn đôi chim cà cưỡng, mỏ vàng lông trắng xám. Nếu khéo tranh sống thì đôi chim cưỡng sẽ còn một con cho đến ngày biết bay.
- Nó ăn thịt con chim cà cưỡng con hả ông?
- Không
đâu, từ trong máu bản năng sống của tu hú
rất mãnh liệt, nó tranh sống, nó dành thức ăn
của mẹ cà cưỡng, nó sẽ húc, sẽ
đạp cho chết bớt để nó có nhiều
thức ăn hơn để lớn.
Tôi mơ
ước có cách gì cứu đôi chim non.
Ngồi ở chạng ba cây gáo, tôi nhìn ra
đầu cành thấy chim non lớn lên từng ngày.
Đôi chim cà cưỡng rộn ràng suốt ngày bay lên
xuống ở đám ruộng trước cổng
để kiếm mồi nuôi con, khi thì con dế non, cào cào,
nhái bén, … túi bụi, lam lũ kiếm mồi trút vào bầy
con toạt mồm kêu chách chách suốt ngày. Khi rỗi vì
nắng trưa gay gắt, đôi cà cưỡng lại
đứng bên nhau trên ngọn mít cao hồn nhiên, liếng
thoắng khoe nhắn : “Tổ tôi
đẹp! Con tôi đẹp! Có sao đâu! Có sao đâu!”. Tôi không
hề thấy bóng dáng cặp chim tu hú lén lút, thủ
đoạn kia ở đâu? Nó có nghĩ
đến cặp con đang gởi ở tổ cà
cưỡng hay không. Tôi hỏi ngoại :
- Ông ơi, bố mẹ tu hú có về chăm sóc con không?
- Bản
năng sinh tồn dạy nó cách đánh lừa, cách
phỉnh gạt để đạt mục đích.
Việc kêu bên đông, lừa bên tây; việc chỉ ăn
một nửa số trứng của cà cưỡng,
để tình máu mủ của cà cưỡng mẹ nghe
tiếng kêu chiêm chíp của con mà phải lo mồi về
nuôi cả con bầy … tất cả đã có trong máu tu hú. Nó thản nhiên làm việc ác và nó xem như nó và
đôi cà cưỡng bông vui vẻ hợp tác sinh
tồn. Một cách nào đó cũng là sự tự
nguyện, rất thân tình của cà cưỡng kia mà!!
Cặp cà
cưỡng bông vẫn hì hục từ mờ sáng cho
đến tối mịt cung ứng đủ mồi cho
hai cái mồm đỏ lỏm, toang toác há ra chờ. Mới mươi ngày mà hai cục thịt
đỏ hỏn hơn ngón chân cái, nay lông ống tua
tủa đen đốm trắng như lông nhím đã
phủ hai con tu hú con. Nó chồm lên cao
hơn hai con cà cưỡng mỏ vàng một cái
đầu, hai cánh dềnh dàng lớn gần gấp đôi
hai chú cà cưỡng bông con.
Đi đâu về, tôi lại nhảy tót lên
chạng cây nhìn vào tổ chim từng ngày, vừa tò mò
vừa xót xa. Tôi làm được gì
đây khi từng ngày chứng kiến sự phản phúc
trưởng thành. Hai con cà cưỡng bông tha mồi
về, một con nhái bén lòng thòng hai chân, nó chưa lựa
chọn để bỏ vào chiếc mồm nào trong bốn
con con, đã bị mỏ con tu hú đen đúa chồm
tới kéo giật về, thiếu điều nuốt luôn
chiếc đầu của con cà cưỡng mẹ.
Cặp mắt lồi, đen mốc ánh sắc đỏ,
cổ tua tủa lông ống như hàng đinh, giọng kêu
chách chách điếc cả tai. Bốn
chiếc cánh lởm chởm lông xòe rộng ra như mấy
bàn tay lông lá đè dí hai con cà cưỡng
con chúi đầu xuống. Nó liên tục ăn, liên tục
kêu chach chách, và ép dí đôi chim cà cưỡng con sát rìa
tổ. Hai con cưỡng mẹ hết sức để
hót líu lo, và cũng quen dần với mấy đứa con
hoang toàng, hung bạo như là một định mệnh.
Rồi một buổi xế chiều, đi học về, tôi lên cây thăm tổ chim cà cưỡng, tôi chỉ còn nhìn thấy hai con tu hú con hoác mồm đỏ hỏn kêu chach chách bên một con cà cưỡng con nhúi đầu bên góc tổ. Một con chim non đã bị tha đi đâu? Nhìn xuống gốc cây gáo, bên bờ cỏ, một con chim non nằm ngửa, bể bọng đái chết, kiến lửa bu đầy. Tôi nhặt xác con chim non đem về hỏi ngoại :
- Ông ơi, hai con tu hú húc cho con cà cưỡng rớt xuống bể bọng đái chết rồi ông! Còn một con, làm sao cứu hả ông!
Ngoại
đập chiếc quạt mo đánh đét vào võng như
đập mấy con ruồi vo ve.
- Ông đã nói cháu rồi! Lũ chim tu hú con nó bắt đầu hình thành cái ác như là bản năng sống. Nó có sức mạnh, nó có quyền giết hết, nó muốn giết sạch để độc chiếm tổ, nhưng nó không làm thế. Nó sẽ hất một con và sẽ giữ lại một con, nó không giết chết hết đâu dù thâm tâm nó muốn giết hết để tranh lấy mồi. Con cà cưỡng mẹ chắc phải nghe một loại âm thanh nào đó của nòi giống cà cưỡng để tin rằng cả bầy con là con mình, và như thế mới lao đầu vào từ sáng sớm đến tối mờ tha mồi về tổ nuôi con. Đâu dễ dàng gì trong sự lọc lựa của tự nhiên, mà một nòi giống chấp nhận sự triệt để phản phúc của một loài khác, nếu trong ấy không có chút tồn tại của bản thân mình. Rồi con xem, thiên nhiên nó có con đường đi của mình, con cà cưỡng con còn lại chắc là có một thứ âm riêng, từ thâm sâu kêu gọi đôi chim mẹ tha mồi nuôi con tu hú, nuôi cho nó lớn, nó lại sẽ bay xa, rồi hè năm đến, chim tu hú lại tìm về một khu rừng nào đó để lại diễn y tấn tuồng lừa bịp mà con chứng kiến.
Ngoại thờ
thẫn buồn, mắt mong xa xăm, chậm rãi
tiếp :
- Ngày xưa, ngoại đã khóc khi nhìn con cà cưỡng non bị hất xuống chết ở góc vườn từ ngọn cây cao như con bây giờ. Ngoại đã chạy bươn qua hàng rào, gai tre trầy sướt để đuổi theo lũ chim tu hú ác độc. Rồi tháng ngày trôi qua, cháu ơi, thời gian như gió xoáy vào đổng cát làm lòi trơ lên mấy tảng đá lởm chởm sù sì – Giọng ông nhỏ dần như tiếng nấc nghẹn ngào – Tuổi già, ừ, tuổi già… và vẫn tiếng tu hú xưa!
Biết làm
sao được cháu ơi! Rồi ngày nào,
đến tuổi nào đó con sẽ hiểu như ông
đang hiểu rằng cái ác, cái thiện nó nương
tựa nhau trong duyên nghiệp. Mình có làm
được gì đâu con? Những thờ
ơ cũng là tội ác đó con ơi!!
Tệ thật cái tuổi già!
Tôi lủi thủi bước ra chỗ cây ổi
sẻ cạnh cổng vườn ông mà nhìn ra mấy
đám ruộng trơ gốc rạ. Tôi
cứ thấy lòng mình nặng như có gì đè lên ngực.
Lối đi trên bờ ruộng lúa mòn vẹt cỏ
dại, mấy con trâu bò đang nằm thiu thiu ở sát
bờ tre nhẩn nha nhai lại, bọt mép trắng
nhẽo phì phọt, vài con sáo sậu lẩn quẩn đi
quanh bắt mồi. Chiều xuống thật
chậm, mây và giông ở miệt Trà Kiệu đen chì,
bức bối.
Đã mấy hôm rồi, ông ngoại như có
việc gì buồn rầu lắm. Ông nhìn
vào mấy bức tranh giấy trên vách mà không còn hào hứng
kể chuyện cho tôi nghe. Nhìn mấy
đốm đồi mồi bên cạnh hàm râu dài màu
trắng của ông, tôi chỉ thầm mong ông còn mãi bên mình.
Tôi không còn thích thú ngồi ở chạng cây nhìn mấy con
chim con lớn lên từng ngày, từ khi tôi biết hai con
quỷ nhỏ màu đen gớm ghiếc kia
húc cho con chim cà cưỡng non rớt xuống đất
chết. Bây giờ, ở dưới gốc
cây nhìn lên, tôi đã thấy hai chiếc mỏ đen,
đám lông đen chấm cú của cặp chim tu hú con.
Tiếng con cà cưỡng con đơn độc nay
đã nghe rõ ràng khác với tiếng chanh chách của hai con
tu hú con.
Rồi vào
một buổi sáng, khi nắng lung linh xôn xao trong gió nồm
trên hàng tre sau vườn, tôi theo
ngoại ra ruộng về. Tôi chợt nghe tiếng chanh
chách của cặp tu hú con ở tận cuối
vườn, bên khóm cây bứa rậm. Tôi thoáng thấy bóng
hai con cà cưỡng từ ngoài ruộng bay về phía
ấy.
- Ông ơi,
cháu lên coi thử, con cà cưỡng con còn đó không?
Tôi leo lên chạng cây, giữa tổ chú cà
cưỡng con mỏ vàng nhạt, lông sọc đen
trắng như cha mẹ nó, cặp mắt như hai
hạt cườm đen vẫn bình thản nằm yên
trong gió mát. Chưa bao giờ tôi thấy cái thanh bình, êm
dịu và đẹp đến như vậy
: cảnh an bình nào lớn hơn con trẻ nằm
trong lòng nôi của cha mẹ nhoẻn miệng cười.
Lòng tôi chợt vui khi thấy một con cà cưỡng tha
về một con dế than, chim con kiểng chân đứng
lên nhẹ nhàng đón lấy, chim mẹ như muốn
dần nhẹ cho con mồi mềm ra để mớm cho
con. Không còn bóng dáng của loài phản phúc, tranh dành,
cướp giật, tự dưng ánh sáng an
lành ngập tràn trong tổ chim cà cưỡng bông.
Tôi chạy xuống cuối vườn, hai con tu
hú đen đã vững vàng đứng trên một cành
bứa cao. Nhìn nó bay ra ngoài mới thấy nó mạnh
bạo và đầy tự tin, đầy sức sống.
Hai chim cà cưỡng vẫn thay nhau tìm mồi về nuôi
hai đứa con hư hỏng, phải mất mấy ngày
như thế nó mới tập bay tập nhảy …
Tôi kể
cho ông nghe những gì mình nhìn thấy trên tổ, kể cho
ông nghe đôi chim tu hú non đã ra ràng, tập bay ở lùm cây
bứa cuối vườn.
Tôi nằm
nghiêng tựa võng xem bức tranh trong bộ tứ bình màu
vàng ố treo trên vách cót : một tên
hầu quỳ xuống dâng áo bào, một Quan Vân
Trường với đao xuống nhận, sau lưng là
hai xe chở nhị tẩu. Tôi tưởng
tượng đủ cảnh tượng qua từng
tấm tranh, qua giọng kể từ từ của ông
ngoại.
- Tào tặc tha cho Quan Vân Trường là thuốc thử với Khổng Minh, Lưu Bị … Nếu tâm nhỏ thì lòng hoài nghi nơi Lưu Bị sẽ đục phá tình nghĩa vườn Đào; ngoài ra không khuất phục được Quan Vũ thì chút quà mọn là chút vốn đầu tư cho mai hậu gởi vào lòng trượng nghĩa của Vân Trường. Mà quả đúng là đâu có lỗ! Chiếc áo bào mỏng này được trả ở Huê Dung Đạo sau trận Xích Bích, Tào thua tơi tả. Nếu không là Quan công ngày ấy ở Huê Dung mà gặp phải Triệu Vân, Trương Phi thì còn gì mạng Tào!!
Tôi lan man nghe ông kể, chữ được
chữ mất, liu riu trong gió nồm mà đánh giấc
xế.
Mấy ngày
sau, cặp chim tu hú non đã tự bay xa, chắc đã
gặp bố mẹ nó ở mấy vườn cây bên kia bìa rừng, hoặc đã tự kiếm
được mồi. Hai con cà cưỡng bông hồi
sức vì dễ dàng nuôi một con dại, tiếng chiêm
chiếp trên tổ lớn dần, cà cưỡng con đã
đứng bên rìa tổ đập cánh chờ mồi
bố mẹ mớm cho. Con cà cưỡng con lông ức
trắng muốt, đuôi rẻ đen viền trắng
đã ló ra như tóc bum-bê thắt nơ của mấy bé gái
chập chững biết đi.
- Ông ơi, nếu không bị hất ra khỏi tổ thì giờ này đã có một cặp chim cà cưỡng bông đẹp biết mấy; hơn thế, nếu không đem công sức nuôi mấy đứa con hoang của tu hú kia thì giờ này bầy cưỡng bông của vườn ngoại mặc sức mà rộn ràng, líu lo …
Nghe tôi
“nếu mà …” lung tung, ông ngoại chỉ khẽ khàng nói :
- Con cà
cưỡng bông sẽ tiếp tục khờ khạo, ngu
ngơ và sẽ cứ mãi tía lia : “Vẫn
đẹp! Vẫn tốt đẹp! Có sao đâu! Có sao
đâu!”,
như con thường trêu. Sang năm vào
hạ, khi gió nồm thổi mạnh, khi mùa cá chuồn
đầy ắp ghe thuyền, thì tu hú lại kêu. Con
trống nó hoác mồm kêu bên phía đông để đánh
lừa, trong khi con mái âm mưu bên phía tây. Rồi cà
cưỡng vẫn phải ấp trứng nuôi con cho tu hú.
Mùa hạ
miền quê tôi khắc nghiệt bao nhiêu, lại là mùa có
những sáng mai trong vườn quê đẹp ngẩn
ngơ. Gió nồm nhẹ thổi sau một đêm dài nóng
bức bối, hương lúa rạ tháng tư hòa lẫn
mùi phân trâu bò có mùi nồng thơm chân chất chen lẫn
hương cau dìu dịu … Từ mờ sớm dàn
đồng ca của lũ cà cưỡng bông, chim cu
cườm, chào mào, sáo sậu … đã líu lo, hàng tre nhún
nhảy trong gió sớm, lấp lánh ánh nắng mai trên đám
lá xanh.
Bây giờ, tuổi đã xế bóng, thỉnh thoảng tôi vẫn thảng thốt nghe vang vang, hư ảo như trong mơ, tiếng chim tu hú kêu đâu đó quanh góc vườn của cuộc đời mình.
(2008)