Con Đã Biết 'Tâm Tình' Của Cha
Hoàng Ngọc Nguyên
13.06.2012
Nhích đến gần
tuổi “thất thập cổ lai hy”, nghĩ đến
mẹ, nhớ đến cha, có lẽ ai cũng phải
khắc khoải, ngậm ngùi trong cảm nhận thấm
thía về chuyện đời “nước mắt chảy
xuống”. Cha tôi mất đã được bảy
năm, tôi chỉ tình cờ có được tập
thơ “Tâm Tình” của cha cách đây chừng một năm,
trong một dịp đi San Jose thăm mẹ và thắp
hương trước bàn thờ của cha. Lướt
qua từng trang một, tôi càng lúc càng thấy bàng hoàng. Và khi
trở lại trang đầu tiên, đọc hai câu dẫn
nhập nhẹ nhàng, đằm thắm của cha “ Sắp
chữ để nói tâm tình, Tai nghe êm ái - ấy mình làm
thơ…” tôi thêm rung động trong cảm tưởng
hình như mình đang khám phá ra cha dưới một nhân
dạng khác mình chưa hề biết, hay không biết
mấy. Như thế mà bao lâu nay tôi vẫn yên trí, chủ
quan, nghĩ rằng trong số mười đứa con
của cha, có lẽ tôi là người hiểu cha nhiều
nhất, bởi vì lòng tự hào vô kể về cha mình, và vì
cứ nghĩ rằng mình đã thể hiện
được hết, lấy được hết
những gì của cha – chưa nói đến chuyện mình
vẫn được xem là có nét mặt giống cha
nhất trong tất cả các anh chị em. Hóa ra cái nhân
bản nhất ở cha mà nay tôi mới khám phá nhờ
tập thơ này, tôi chưa với tới được,
có lẽ vì chưa nghĩ tới đúng mức.
Tôi vẫn nghĩ mình thuộc nằm lòng cuộc
đời có lúc trôi nổi, có lúc thử thách,
được dệt bằng những kinh nghiệm phong
phú của cha dưới bao nhiêu chế độ, bao nhiêu
hoàn cảnh phải đấu tranh để tồn
tại, dọc theo chiều dài lịch sử đầy
phong ba, bão táp của đất nước. Ở nơi
cha, một sự lựa chọn nổi bật là tư
cách và nhân phẩm là những giá trị con người không
thể thỏa hiệp được. Chính bởi vì nguyên
tắc này, cha đã từng là “thầy phán” làm việc
ở Tòa Khâm Sứ với tây rồi cũng bỏ, làm cán
bộ thuế vụ cho Việt Minh rồi cũng đi,
làm giám đốc Nha Thuế Vụ cao nguyên nam phần
đóng ở Dalat rồi cũng thôi, làm việc một
thời ở Quốc gia Nông tín cuộc rồi cũng
về hưu sớm… Để bảo vệ sự
“độc lập tự do” của mình, cha chẳng có
một ngày nào ngồi không, không miệt mài, bận
rộn trong công việc, vừa việc công sở ngày tám
tiếng, vừa việc lãnh thêm về nhà làm như
dịch phụ đề Việt ngữ cho các phim hay làm
kế toán cho các công ty… Cha cũng dành nhiều thì giờ cho
việc dọn nhà (thay đổi vị trí đồ
đạc trong nhà như một “thú vui”) hay sửa nhà…
Nhưng đáng nhớ hơn nữa là thì giờ ông dành cho
con cái thuộc mọi lứa tuổi (dạy học cho
mấy đứa lớn, đưa đón mấy
đứa nhỏ đi học, đi chơi…). Tôi
chẳng hiểu làm sao tôi có thể biết được
tiếng Pháp nếu cha không có thói quen kết luận
những điều ông muốn dạy dỗ, nhắc
nhở chúng tôi bằng những câu ngạn ngữ tiếng
Pháp (science sans conscience n’est que ruine de l’âme, chaque chose a sa
place, l’homme qui veut voyager loin ménage sa monture, la fin justifie le
moyen…). Và làm sao tôi có thể quên được
những kỷ niệm riêng giữa cha với tôi, bao
giờ cũng lớp lang trong những ngăn tủ
của ký ức: chuyến đi Dalat theo cha nhận
nhiệm sở năm 1955, bữa tiệc trên sân
thượng lầu 9 của Hội Việt Mỹ nằm
ở đường Mạc Đĩnh Chi cho những
người thi đậu bằng proficiency năm 1963,
lần cha đưa tôi lên Dalat năm 1964 khi tôi quyết
định theo học Trường Chính trị Kinh doanh;
lần cha lên quân trưòng Thủ Đức thăm tôi vào
năm 1972; lần cha thăm tôi tại trại tập trung
Xuân Lộc năm 1976 để khuyên tôi “học tập
tốt, lao động tốt” để được
sớm về…
Cho dù thực sự tôi chỉ sống với cha mẹ cho
đến khi lập gia đình khi mới 23, tôi vẫn có
may mắn được lui tới với cha mẹ
thưòng xuyên, chỉ gián đoạn một vài khúc
ngắn, và những kỷ niệm biến chuyển,
đổi đời vừa đẹp đẽ vừa
kịch tính trong đời sống với cha với
mẹ từ khi cha tôi rời hàng ngũ kháng chiến,
từ vùng rừng núi bưng biền trở về với
gia đình năm 1952 vẫn đầy ắp trong ký ức
bộn bề của tôi. Và tôi vẫn nghĩ chẳng có gì
trong di sản văn hóa và tinh thần của cha mà tôi đã
không hưởng thụ, từ sự tự lệ
thuộc cuộc sống mọi mặt của cha vào
mẹ tôi và niềm hạnh phúc có khi hoang tưởng
của cha đối với từng đứa con một
đến ý chí học tập phấn đấu không
ngừng của cha, đến mức khi hơn 50 tuổi,
ông vẫn còn để thì giờ cắp cặp
đến Hội Quản trị Xí nghiệp trên
đường Nguyễn Huệ để theo học
những lớp về kế toán, hạch toán kinh doanh
kiểu Mỹ. Một ý chí có thể hun đúc từ lòng
đam mê mở rộng kiến thức, nâng cao trình
độ, cho nên ham mê tin tức, sách báo và thời sự,
và ngày đêm chỉ có một ám ảnh bất tận
về những điều mình suy nghĩ miên man không
ngừng, những gì mình muốn viết về sự
nghiệp “dang dở’ của mình.
Thế nhưng tập thơ “Tâm Tình” anh tôi đã in ra cho
cha từ năm 1997, mà tôi đến hơn mười
năm sau mới biết đầy đủ, đã cho
thấy những thiếu sót, lầm lạc của tâm trí
của mình, của thì giờ của mình đối với
cha, nặng nề đến như là nghiệp
chướng. Nhờ tập thơ này, tôi mới hiểu
sâu sắc hơn cha tôi, cuộc sống và ý nghĩ của
cha trong tuổi xế chiều, với những thử
thách riêng của tuổi già: những năm bất an
dưới thời Cộng Sản mới vào; những
năm chờ đợi đến được với
cuộc sống mới; những năm tháng ngày càng
trống vắng trên đất khách, quê người,
nhớ quê cha đất tổ, nhớ bạn nhớ bè,
thương yêu và ngọt ngào với vợ, với con; nhìn
thế sự thăng trầm khắp nơi trên trái
đất tưởng như xem dược “bức tranh
vân cẩu vẽ màu tang thương”, và mong chờ sự
giải thoát tâm hồn nơi tôn giáo… Tập thơ cho
thấy cha đã âm thầm chuyển qua cuộc sống
nội tâm, tìm đến với Phật, với tăng,
với kinh kệ trong tuổi già, khi đã gần 70,
tưởng rằng có thể muộn, hóa ra chẳng bao
giờ muộn cả. Vào tuổi đó, cha vẫn
đủ sức đạp xe lên chùa Già Lam trong Gia
Định của thầy Trí Thủ, hay Thanh Minh Thiển
Viện của Thượng tọa Thích Minh Châu ở Phú
Nhuận, vừa đọc sách Phật giáo, vừa tập
Thiền.
Trong cuộc sống của ông, dường như không
học, không đọc, ông chịu không nổi. Và một
người hiếu học, ham đọc, và phần nào
dấn thân vào cuộc sống tất nhiên là người
thích viết. Lúc tôi còn học đệ ngũ năm
1960, anh chị em chúng tôi đã thấy được
tập tài liệu nghiên cứu mà cha là tác giả, “Canh
cải Thuế khóa” (mẹ tôi vẫn nói đùa hồi
đó, mà nay 92 tuổi bà vẫn còn nhớ: thuế khóa mà
sao nấu thành canh cải được). Rỗi rãnh trong
tuổi già, cha cũng có viết lên một vài suy nghĩ
về tôn giáo, về thiền, về cách sống tuổi
già. Tôi vẫn còn giữ một tập hồi ký ngắn
cha kể lại mối “lương duyên” của cha
với mẹ, khi cha 23 và mẹ mới 15 - gặp nhau
tại nhà ga xe lửa ở Huế. Chị cả của
tôi ra đời khi mẹ mới 16! Ông viết về quá
khứ với sự thích thú, nâng niu, nồng nàn, ít khi
thấy ở ngưòi già. Ông rất muốn viết
một tác phẩm lớn, một đại hồi ký. Ông
không hoàn thành được, đúng là mưu sự tại
nhơn, thành sự tại thiên! Tôi cũng biết cha
thỉnh thoảng có làm thơ, nhưng chẳng
tưởng nhiều đến thế, chất chứa
đến thế để trở thành một tập
thơ. Rõ rệt, càng chìm trong nội tâm của tuổi già
với dư giả thời gian suy gẫm cả chiều
dài cuộc đời chứng kiển cảnh “thế gian
biến đổi vũng nên đồi”, ông càng có
nhiều điều chất chứa, tích lũy trong lòng
muốn chia sẻ, và tìm thấy ở thơ như một
phương tiện thông đạt hay bày tỏ đơn
giản, ngắn gọn, dễ dàng mà trước đây
ông không mấy quan tâm.
Chẳng phải là người nghiên cứu thơ, cũng
chẳng phải là người làm thơ, nhưng qua
những gì đã học được từ thời trung
học, tôi vẫn nghĩ thơ là một thể loại
ngôn ngữ có âm điệu để chuyên chở, diễn
đạt những gì chìm lắng, cô đọng, phong phú
nhất trong ý nghĩ của con người.
…
Thơ phức tạp … với người làm thơ,
chẳng phải là chuyện cho một người không làm
thơ bàn đến, nhưng không khó với người
chịu học, chịu đọc, và thơ còn dễ
nhớ, dễ được nhắc đến trong nói
trong viết. Có lẽ đó chính là một trong số ít những
lý do cha đến với thơ, trong những lý do đó
cũng chẳng thể không kể cha là rể của ông
ngoại tôi, bác sĩ Phan Văn Hy, là nhà thơ Kỉnh
Chỉ nổi tiếng một thời ít nhất là ở
Huế và Quảng Trị. (Ông từng là giám đốc
bệnh viện Quảng Trị, bộ trưởng
Bộ Cựu chiến binh cho chính phủ Nguyển Văn
Tâm và một trong 17 thành viên của Thượng Hội
Đồng Quốc Gia, vào năm 1964 bị Nguyễn Khánh
hốt hết đem nhốt trên Pleiku). Cha không mấy
bận tâm với sự phức tạp của thơ.
Đó là chuyện của những người “chuyên
nghiệp”. Đối với cha, thơ là một
phương tiện chuyên chở tiện lợi, nhanh chóng,
dễ dàng, tự nhiên, không phải loanh quanh. Ông có quan
niệm về thơ rất giản dị, “thơ
đến với mỗi người trong chúng ta từ khi
chúng ta còn nằm trong nôi, bởi vì lời mẹ ru con chính
là những bài thơ đầu tiên đến với
mỗi đời người…. những lời ru nhờ
âm thanh trầm bỗng đã dỗ giấc ngủ cho tôi,
chấp nhận chúng như những bài thơ khai tâm”.
Ông không muốn là thi sĩ, nhưng cần có cách nói lên
những gì chất chứa trong lòng mà ông muốn nói ra,
muốn mọi người chia sẻ. Trong lời mở
đầu “trần tình”, ông viết: “Làm những bài thơ
để trang trải tâm tình, tưởng nhớ
đất đai quê hương và tổ tiên thì tuyệt
nhiên không phải là chuyện không ai làm nổi, khi
người ấy có được sự chân thành,
trước hết với chính mình. Tôi tự coi mình
nằm trong số những ngưòi làm thơ sau (vì mục
đích như thế), chọn in ra một ít bài gần
gũi nhất với cuộc sống trước tiên là
gia đình, kế đó là xã hội, với mục đích
duy nhất là lưu lại cho con cháu, ít ra là như một
kỷ niệm. Sau này, nếu như trong cuộc sống
tất bật, trong số con cháu xa gần ấy có ai tìm ra
được một vài phút rảnh rỗi, bỗng tò mò
muốn biết ngày xưa ông cha mình sống và nghĩ
như thế nào, tập thơ nhỏ này biết đâu
sẽ may mắn có phần đóng góp của nó?” Và tôi không
thể có lời nào nói thay cho cha, khi ông đã kết luận:
“Với tâm tình, sự chia sẻ nào cũng là điều
đẹp đẽ, nhất là sự chia sẻ giữa
những thế hê khác nhau. Bởi thế tập thơ
nhỏ này, trước tiên, là một tập thơ gia
đình”.
Tập thơ bắt đầu bằng bài có tựa “Thơ
ba, thơ bạn, thơ mình”, nói lên không những ý
hướng đơn giản của ông khi đến
với thơ, mà còn những nguồn cảm hứng và quan
hệ thông đạt mà ông mong ước. “Thơ ba” là
thơ của nhạc phụ. Thơ là cách bày tỏ sự
quí hóa những người mình quí hóa trong cuộc sống.
Ông viết:
Thơ ba, thơ bạn, thơ mình
Thơ nào cũng tỏ cái tình tương thân
Dù cho thế hệ xa gần
Có thơ mới rõ trăm lần thương nhau
Trong bài tâm tình nhắn gởi cho con, viết năm ông 70,
bảy năm sau khi Cộng Sản cầm quyền, con cái
trong nước xất bất xang bang, con cái ở bên ngoài
thì khắp nơi mỗi đứa một ngã hai ba
đứa ở Pháp, ở Ý, đứa ở Mỹ,
đứa ở đảo, đứa ở Đan
Mạch… ông than thở:
Tâm tình trao đổi đề khuây khoa
Chia sẻ cho con lúc tuổi già
Xa cách lâu ngày thêm chán nản
Còn bao tuổỉ nữa mãi bôn ba
Thời cuộc ngày càng thêm phức tạp
Đ
ất nước tương lai chẳng
đoán ra
Khi say khi tỉnh tâm bất tịnh
Vui buồn tiếp diễn, khổ lòng cha
Những lời lẽ ngọt ngào, phần nào mang tính hài
hước cố hữu nơi cha, ông dành cho mẹ,
như bài nhân dịp mẹ được bảy
mươi vào năm 1990:
Sinh nhật ngày này đúng bảy mươi
Nhìn em vẫn đẹp một nụ cười
Canh Thân Nhâm Tý luôn hòa hợp
Hạnh phúc gia đình mãi tốt tươi
Em đã góp nhiều cho thành quả
Anh lo gìn giữ để tô bồi
Thấp thập cổ lai là hiếm có
Thượng thọ rốt rồi sẽ đến
nơi
Trong tập thơ có một số bài tỏ cái tình với
quê hương nơi mình đã sinh ra và lớn lên, tình
cảm quyến luyến với bạn bè, nhưng
đặc biệt có “Nhớ cố hương” cho
thấy cái nặng tình đó:
Đất khách ngồi mơ cành cố hương
Quên quên, nhớ nhớ, đề rồi thương
Sông còn uốn khúc nơi Chợ Sãi
Ruộng vẫn mất mùa ở Tài Lương
Vùn vụt gió Nam lay xóm trúc
Chập chùng sóng động gợn Hiến Lương
Nhớ ai vác cuốc ra đồng áng
Khiến ta thao thức suốt canh trường
Và ở một bài khác, ông nhắc cho con cháu hiểu cái khó
trong lòng ở chuyện đi hay ở:
Con ơi có rõ tình lưu luyến
Quả hái xong rồi nhớ đến cây
Từ năm 70 ông chuyển nhiều qua cuộc sống
đạo tu tập, viết kinh, đọc kinh, đi
chùa, ngồi thiển, theo mẹ đi xây dựng cả
một tủ sách nghiên cứu Phật giáo mà ông rất
tự hào, nhưng vẫn không thích ăn chay. Ông nhìn
cuộc sống này cũng đơn giản:
Không ham không muốn chẳng cao cường
Tránh dữ theo lành giữ kỷ cương
Không thù không oán đều thân thiện
Gần gũi người lành tránh bất lương
Phạm lỗi, hối ngay rồi từ bỏ
Thấy người thọ khổ động lòng
thương
Ai ơi tu Phật thì nên nhớ
Thức tỉnh nguyện cầu đến tây
phương
Tập thơ 62 trang, chất chứa đầy những
tâm sự, tình cảm của một người già,
sống một cuộc đời đầy đủ và
hạnh phúc giữa vợ và các con dâu rễ ở nơi
đất khách quê người, nhưng vẫn không quên
những ngày xưa, không quên quê cha đất tổ, không
quên bà con hay đồng bào còn cơ cực, không quên bạn
bè người còn kẻ mất đang trôi giạt trong
những hoàn cảnh khác nhau, và cũng không thiếu
những nhận xét vế sự biến đổi vô
thường của tình thế khắp nơi, để
cảm nhận sự phù du hư ảo của cuộc
đời, được đó mất đó, có đó,
không đó, và từ đó đi vào hướng đến
với đời sống tôn giáo, như một hành
trình cuối đời, mà trong cuộc hành trình này, cha
vẫn thấy cần có mẹ bên cạnh.
Tôi tin ở sự luân hồi, ở đời sau, ở
kiếp khác, ở thế giới bên kia. Bởi thế tôi
viết lên những lời này. Không phải để
giới thiệu với mọi người tập thơ
“Tâm Tình” của ông Hoàng Ngọc Viên, pháp danh Nguyên Ngộ, mà
chỉ đề nói với cha: “Ba ơi, con đã
đọc ‘Tâm Tình’ của ba. Những gì ba đã viết,
đã dệt lên thành những bài thơ, làm con rất
đổi tự hào. Và một phần nào đó hiểu
được tại sao cho đến giờ con vẫn
còn ngồi hàng ngày gõ trên keyboard của máy vi tính”. Tôi
ước gì có thể viết những lời này sớm
hơn, mươi, mười lăm năm trước.
Hay ít nhất bảy tám năm. Chắc ba đã có thể
vui hơn. Đã có thể nói chuyện với tôi nhiều
hơn. Đã có thể làm nhiều thơ hơn để
nhìn sâu hơn vào những tâm sự của mình. Đã có
thể không ngại làm vướng bận con cái vì
những chuyện của mình. Biết đâu cha còn sống
đến cả trăm tuổi. Và tôi đã có thể không
bị ân hận, dằn vặt mãi mãi như thế này.
Đã có thể trở thành người hạnh phúc
nhất thế gian này. Nhưng muộn còn hơn không.
Và nghĩ đến cha, tôi cũng nghĩ đến
những người khác ở tuổi già, cũng cô
đơn, cũng nhung nhớ, cũng rụt rè, cũng
thấy gần gũi những người thương yêu
hơn bao giờ hết, nhưng cũng xa hơn bao
giờ hết. Cũng đánh mất hoàn toàn quá
khứ trong sự tuyệt vọng. Cũng thấy
hiện tại trong hư ảo. Cũng nhìn tương lai
đang rút ngắn trước mắt. Nhưng họ không
chia sẻ được, bày tỏ được tâm tình
của mình. Và tuổi già vì thế càng thêm trống vắng
trong cuộc sống tạm bợ.[HNN]
(Nguồn: Hoàng Ngọc Nguyên chuyển tiếp thunhan1-2@yahoogroups.com từ voatiengviet.com)
Những gì ba đã viết, đã dệt lên thành những bài thơ, làm con rất đổi tự hào. Và một phần nào đó hiểu được tại sao cho đến giờ con vẫn còn ngồi hàng ngày gõ trên keyboard của máy vi tính.