Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ
Lần theo mê lộ có đường hầm của Hệ Thống Tiền Tệ Mỹ B.S. Nguyễn Lưu Viên ------------------------------------------------------------ Lời
nói đầu Cả
năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc
mắc nợ của chánh phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của Ông
Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù
tịt. Nhưng vì tò mò muốn hiểu biết, nên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi đó
đây. Thì mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê-lộ có đường hầm,
[un vrai labyrinthe avec des souterrains] một con đường màng nhện chằng chịt
mà nếu đi không có bản chỉ đường thì sẽ dể bị lạc. Rồi
tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y Tế Nguyệt San chắc cũng có một ít bạn
đọc mù tịt như tôi, nhưng không có thì giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên
tôi viết bài này tóm lược và giản-dị -hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp
đã kéo dài theo lịch sử của Hoa-kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ
vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà mình phải đối phó hằng ngày. Tôi sẽ
dùng phương pháp hỏi và đáp [H & Đ] để dẫn đường
quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy. Tôi
xin lưu ý quý bạn: Vì trong bài có vài ba cụm-từ được nhắc đi nhắc lại nhiều
lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve, CPLB
là Chính Phủ Liên Bang, HCQHK là Hiệp Chủng Quốc Hoa-Kỳ và T.T. là Tổng
Thống. ------------------------------------------------------ I- Tạo ra tiền [create money]. H-: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vây ở bên Mỹ cơ quan nào có quiyền phát hành dollar? Đ-: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài Chánh của CPLB . Nhưng trên thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ Tài Chánh của CPLB chỉ có quyền phát hành “coins” nghĩa là đúc [mint] các dồng tiền One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar. H-: Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar? Đ-: Chỉ có Federal Reserve [FED] mới có quyền phát hành giấy xanh dollar. H-: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông Tổng Thống Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ? Đ-: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “ a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ. H-: Ai nợ ai? Đ-: Chánh Phủ Liên Bang nợ FED. H-: Sao lại có chuyện đó? Đ-: Số tiên CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên CPLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách cho phép Bộ Tài Chánh [The Treasury Department] in giấy nợ dưới hình thức “Federal Bonds” [là giấy IOU (I Owe You) trong đó chánh phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời] [mà bách-phân lời (% interest) là do FED. chủ nợ, quyết định]. FED chấp nhận và in [thí dụ như một tỷ dollars $1 billion] đưa cho chánh phủ. Thế là chánh phủ [tức là quốc gia, là dân Mỹ] nợ FED một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên đến năm 1995 số tiền nợ là $5 trillion [1 trillion là 1 ngàn tỷ] và đến ngày 16-th.3-2006 là hơn $8,21 trillion. H-: FED là một cơ quan của Liên Bang, vậy CPLB mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ Tôi”. Đ-: Khác, vì FED là một cơ quan mang tên là “Liên Bang” [Federal] nhưng không phải của Liên Bang. FED là một công-ty độc lập của tư-nhân [a corporation independent privately owned]. H-: Privately owned thì ai own nó? Đ-:
Federal Reserve [FED] gồm có 12 cái Fed bank địa phương [twelve regional
federal reserve banks] mỗi cái là sở-hữu của những nhà bank buôn bán tư thành
viên của cái Fed địa phương đó. Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston,
2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco,
7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và
12-Dallas. Fed Bank của New York có đa số cổ phần [53% of shares]. Mà trong Fed bank của New York, Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia-đình Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co là của gia-đình Morgan. Hai gia đình này và gia đình Carnegie với gia đình Rothschild là thành phấn quan trọng nhứt của một nhóm người mà hoc giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” [những Nam-tước Trộm Cắp]. H-: Nhưng trong Ban Quản Trị [Board] của FED ở Washington có Ông Tổng Trưởng Tài Chánh [the Treasury Secretary] và Ông Giám Sát Ngân Khố [the Comptroller of Treasury] là nhân viên chánh phủ. Đ-:
Vâng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ ký tên của hai ông này. Và
T.T. Mỹ cũng bổ nhiệm [với sự chấp thuận của Senat] ông Chủ Tịch Hội
Đồng Quản Trị [Chairman of The Governing Board] của FED, cho nên FED được coi
như là một cơ-quan “gần như chính thức” [ quasi-governmental].
Hội Đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà Tổng Thống chỉ có
quyền thay thế một người mỗi hai năm. Như
vậy, thí dụ như có một ông T.T. muốn sửa đổi FED theo ý của ông, thì
trong nhiệm kỳ 4 năm của T. T, ông chỉ thay thế được có 2 người [vì ông chỉ
có quyền thay thế một người mỗi 2 năm.] Thôi thì cho rằng ông ấy là một
ông T. T. tài ba lổi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà
ông đã gây ra [vì quan niệm muốn sửa đổi FED], trong hàng ngũ dân-biểu và
nghị sĩ của cả hai đảng, trong chính trường và trong media, để ông được đắc
cử một nhiệm kỳ thứ hai, thì ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong
Governing Board (nếu được the Senate chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm
kỳ 2, ông mới đưa ra được một dự luật sữa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có
được số phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông
phải rời khỏi Nhà Trắng. Mặt
khác ban Quản Trị [Board] không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và
các Fed bank địa phương phải theo chánh sách của Fed Bank New York nắm
đa số cổ phần. Vả lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay, chưa bao giờ bị
chánh phủ “audit”[ soát xét ] vì năm 1975 dự luật [bill] H.R.4316 cho phép
chánh phủ “audit” FED, được đưa ra Congress, nhưng dự luật không thông qua
được vì không đủ phiếu. Hãy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty [corporate director] cho J.P. Morgan, thì được T.T. Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ Tịch của FED, giữ chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời T.T.George W. Bush mới về hưu. Nghĩa là đã làm Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị FED với bốn đời T.T. Mà trong lúc tại chức Ông không bao giờ có hợp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi. H-: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coins, còn quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED thì bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ, tỷ lệ của mổi thứ tiền là bao nhiêu? Đ-: Tiền coin của CPLB đúc chỉ khoảng một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy được” [tangible currency] chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp [American Money Supply] H-: Sao kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra? Đ-: Phần 90% còn lại là tiền ma [phantom money]. H-: Tiền ma là tiền gì? Đ-: Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chổ không có gì hết [money created from nothing], do cái trò ảo-thuật cho vay [gọi là “loan”] tạo ra. H-: Thật sự tôi không hiểu được. Đ-:
Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra
tiền từ con số không [create money out of nothing] dựa trên cái gọi là
“fractional reserve banking” do đạo luật tạo ra FED [Federal Reserve Act] cho
phép. Theo đó thì khi mà nhà bank có trong kho của nó một số tiền X là tiền
thật [hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh] được coi như là để dự-trữ
[reserve], thì nó có quyền phát ra 10 X [tức là có 9 X tiền ma, không
có bảo đảm reserve]. Thí
dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi $ 10,000 thì nhà
bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra
$100,000 [tức là trong đó có $ 90,000 là tiền ma, vì không có reserve bảo
đảm] Cũng như thế, Anh B để vào bank trong saving account $ 20,000, thì nhà
bank có quyền phát ra $200,000 [tức có $180,000 là tiền ma]. Tổng cộng nhà
bank có quyền phát ra $300,000 mà trong đó có $270.000 là tiền ma. Rồi
khi Anh C đến mượn nhà bank $300,000 [để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác]
thì nhà bank cho ảnh mượn [dưới hình thức loan] $300,000 đó. Anh C sẽ trả cho
nhà bank số tiền đó cộng với lời [x %] dưới hình thức mortgage hằng tháng,
trong 15 hoac 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà anh C có được nhờ
lương của anh C, hoặc nhờ việc làm [như phòng mạch] của anh. Tức là nhà bank,
nhờ cái ảo-thuật của “loan” đã “create money out of nothing”. Thí
dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẫu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn,
nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là
tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng,
xưởng v.v. cần tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì
không có gì lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ
[American money supply] năm 2005 là $9.7 trillion trong đó tiền thật
[tangible currency] chỉ có $ 1.4 trillion, còn $8.3 trillion là tiền ma.
Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng credit card
[Visa, Master Card, American Express v.v.] với một lãi suất [% interest] còn
cao hơn gấp bội. II- Một chút lịch sử. H-: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó? Đ-: Anh nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng học giả Mỹ thường ví FED như một con “Hydra”. Theo từ-điển Hydra là một con rắn có chín đầu [trong thần thoại] hể chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái vòi [tentacles] rất dài để bắt mồi từ xa. FED [con hydra dưới hình thức hiện tại] sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do Tổng Thống Woodrow Wilson ký [về sau ông hối tiếc]. Còn từ đâu và tại sao có nó, thì phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần, mổi lần lại sống lại với một tên khác. H-: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không? Đ-:
Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài
trăm trang trong mỗi sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc. Ở
Trung học chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh-quốc.
Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu-quốc Anh đánh thuế vào trà [tea tax] một
buổi tiệc trà được tổ chức ở Boston [Boston Tea Party]. Trong dịp đó một số
người Mỹ giả làm người da đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống
biển. Bị chánh quyền cai trị đàn áp, những đoàn dân quân được thành lập để
chống trả lại, và Ông Benjamin Franklin triệu tập một Hội Nghị gọi là
Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên Ngôn Quyền Của Người Mỹ Có Đống
Thuế ” [Delaration des Droits du Contribuable Americain] năm 1774. Sau đó,
với sự chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts , Congress cho ra Bản
Tuyên Ngôn Độc Lập [Déclaration d’Indépendance ngày 4-7-1776.] Rồi dưới sự
chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền
Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa Ước Versailles năm 1785
Anh-Quốc công nhận cho HCQHK độc lập. Nhưng
sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông
Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều. 1- Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể
từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là
“Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua
bán trao đổi hàng hóa, trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là
Ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái
lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu
thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chánh phủ có tiền,
mà không tạo ra sự lạm phát [inflation] hay sự kém phát [deflation] nên vật
giá và giá lao công [product and service] vẫn được điều hòa và cân bằng. Nhờ
vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có
ăn mày, trong lúc ở London của mẫu-quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người
lang thang lêu lổng [The streets are covered with beggars and tramps].
Thì các chủ nhà bank Anh [the British bankers] lobby triều đình, nên năm
1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà
phải dùng tiền “coins” của mẩu-quốc [do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể
dưới tên là Bank of England phát hành]. Vua George III kế vị vua cha từ
năm 1752 giữ nguyên lệnh ấy. Khiến các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì
thiếu tiền coins [do mẩu quốc siết để tạo sự kém phát deflation], người làm
ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt,
trái không ai hái. Người có hãng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không
được sản xuất. Toàn dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo
đói không gia đình nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống đối chính
quyền và đó là nguyên nhân sâu xa của cuộc Cách Mạng Mỹ năm 1774. Cái ”Boston
Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình. 2- Việc đầu tiên Congress làm là phát
hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới hình thức IOU [I owe
you.] nghĩa là giấy nợ mà Chánh Phủ Cách Mạng cam kết sẽ trả lại bằng
tiền coins [vàng hay bạc] sau này. Lối chừng 200 triệu dollars dưới hình thức
“continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc
lập. Mẫu quốc Anh phản ứng bằng cách in tiền giả đổ ào ạt vào thị
trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập
tiền “the Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế là mẫu-quốc thua
trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế [dính liền với tài chánh]. 3- Vì thấy tiền Continental gần như không
còn giá trị, nên các nhà “Quốc Phụ Lập Quốc [the Founding Fathers], không còn
tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến Pháp được viết ra, các ngài không nói
tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” [thay vì “create
money”] và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chánh phủ [“and to borrow
money on the credit of the United States]. Thì các nhà bank của mẫu-quốc Anh
cũ, là các ngân hàng Anh quốc tư nhân; xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank
theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm
nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Hòa-lan [Amsterdam] nắm và chính
các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó [the
enormous loophole] mà nói rằng chiếu theo Hiến Pháp chánh phủ chỉ có quyền
phát hành coins, và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coins thì
cồng kềng và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam két sẽ trả
lại đúng số coins [bằng vàng hay bạc] ghi trên giấy, thì dân chấp nhận coi
những giấy ấy như là tiền. 4- Rồi với thời gian qua, các nhà bank để
ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coins. Trung
bình hằng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì
không bao giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coins. Cho nên nhà bank nghĩ rằng họ
có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là
“fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma. 5- Tổng Thống Thomas Jefferson
(1801-1809) vị T.T. thứ ba của Mỹ thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên
đoàn các nhà bank [the banking cartel] là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có
cái đầu của con Hydra” và ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát
việc phát hành tiền tệ của mình, thì trước hết bằng sự lạm phát [inflation] rồi bằng sự kém phát [deflation] các nhà bank và các công ty [corrporations]
sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, còn con cháu chúng ta sẽ thức
dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được.” Nên năm
1811 Congress không chấp nhận gia hạn cho đặc quyền [renew the charter] cho
First U.S.Bank. Khiến cho chiến tranh với Anh quốc [the War of 1812] bùng nổ.
Chiến tranh đưa quốc gia đến lạm phát [inflation] và nợ nần [debt]. Vì những
lý do đó, Tổng Thống James Madison (1809-1817) vị T.T. thứ tư của Mỹ, phải ký
một đặc quyền 20 năm [a twenty year charter] cho Second Bank of The United
States vào năm 1816. 6- Tổng Thống Andrew Jacksaon (1829-1837)
vị T.T. thứ 7 của Mỹ veto dự luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền
cho Second Bank of the United States. Trong bản veto ông viết:” Không có cái
gì nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà
bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy
tiền của dân ta, và bắt giữ cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, thì
còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”. Nhưng ông cũng biết cái veto chỉ là bước
đầu của cuộc chiến với nhà bank nên ông nói: “ Con hydra của sự đồi bại mới bị
chặn lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho ông Tổng Trưởng Tài Chánh
[Treasury Secretary] mới của ông, chuyển hết tiền deposit của chánh phủ từ
Second US Bank qua các nhà bank của Tiểu Bang [state banks] thì ông này từ
chối không làm. Ông T.T. cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác. Ông
này cũng từ chối không làm thì T.T. Jackson bổ nhiệm người thứ ba, ông này
thi hành lệnh nên T.T. Jackson vui mừng mà nói: “ Tôi đã trói được con quái
vật rồi ” .Nhưng ông chủ nhà Bank, lobby được Senat không chấp thuận người được
Tổng Thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt
sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát [deflation] bằng cách hồi [call
in] các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng hốt tài
chánh [a financial panic] xảy ra trong dân chúng, đám báo chí đổ tội vào đầu
Tổng Thống Jackson. Nhưng may thay Ông Governor của Pennsylvania [là nơi có
trụ sở của nhà bank] xuất hiện để ủng hộ T. T. Jackson và phê bình nhà bank
rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đoạn kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước
công chúng. Cho nên đến tháng 4- 1834 Hạ Viện [House
of Representatives] với 134 phiéu thuân và 82 phiéu chống, đã hủy bỏ việc tái
ban đặc quyền [rechartering] cho Second U.S.Bank. Đến tháng 1- 1835 thì
T.T. Jackson trả được hết các nợ của chánh phủ. Rồi ngày 30-1-1835, khi
T.T. Jackson đến Capitol để dự tang lễ của Dân-biểu Warren R. Davis của South
Carolina thì ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong
rotunda cách ông có sáu feet bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi T.T.
Jackson đóng cửa nhà bank trung ương [Central Bank] thì tiền giấy được dùng
là những banknotes của của các nhà bank tư của các Tiểu Bang, hứa sẽ trả lại
bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia [national
currency]. 7- Sau T.T. Jackson, ông tổng thống dám
đánh con Hydra tiền tệ là T.T. Abraham Lincoln (1861-1865), vị T.T. thứ 16
của Mỹ. Liền sau khi ông đắc cử và trước khi ông nhậm chức thì Nội Chiến
Nam-Bắc [The Civil War] bùng nổ (1860) vì vấn đề “Nô-lệ” [Slavery]. Các nhà
bank của vùng phía Đông [tức là thuộc về Union ] đề nghị cho chính phủ vay
$150 triệu với bách phân lời quá nặng từ 24 tới 26%. T. T. Lincoln từ chối và
quyết định chính phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United
Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” vì phía sau in bằng mực màu
xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ [IOU] với cam kết
trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xã hội.
Công lao sản xuất [product] từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật
dụng, công lao dịch vụ [service] từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ
an ninh trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và quan trong
quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thơ ký đến giám đốc đến nguyên
thủ quốc gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ
dùng là trao giấy chứng nhận công lao của mình để nhận lấy món hàng được sản
xuất với công lao tương đương của người bán. Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của
dân, cho dân và vì dân, chớ không phải vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời
Ông Benjamin Franklin lúc Hoa kỳ còn là 13 thuộc địa phồn thịnh, nên trong có
bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng loạn Miền Nam được Anh giúp tiền,
và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, T.T. Lincoln đã thực hiện cho nước
Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhứt thế
giới lúc bấy giờ, biến Hoa-kỳ thành một nước kỹ-nghệ khổng lồ [industrial
giant], kỹ nghệ thép [steel industry] được thành lập, một hệ thống hỏa-xa
xuyên lục-địa dược xây dựng, Bộ Canh Nông được thành lập để thúc đẩy viêc chế
tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được
thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành
chánh cho các vùng miền Tây, tăng mức sản xuất lao động [labor productivity]
lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những viêc ấy thực hiện được là nhờ một việc rất
giản dị là chính chánh phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con Hydra tiền
tệ đã bị T.T.Lincoln chặt đứt. Nhưng đến ngày 14-4-1865, thì một kịch-sĩ
tên là John Wilkes Booth ám sát T.T. Lincoln trong lúc Ông đang xem tuồng hát
Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là
con Hydra lại có cơ mọc đầu trở lại. Và đầu nó mọc lại thật, vì dân vẫn thích
có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng dollar vàng. Thì
các nhà bank phát hành banknotes bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên
dùng những banknotes đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hHdra mới
xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913. III-
Tân hydra chào đời. H- : Tai sao có Luật đó? Đ-:
Vì năm 1907 xẩy ra một cuộc “ Khủmg Hoảng Tài Chánh” [a Financial
Panic] nên năm 1908 T.T.Theodore Roosevelt (1901-1909), vị T.T. thứ 26
của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề
tài chánh. Chủ tịch của Commission đó là ông Nghị Sĩ Nelson Aldrich [bên
ngoại của David Rockefeller Sr.]. Ông Aldrich dẫn cả đám commission đi tour
sang Âu-châu để nghiên cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, ông lập lên một
cách hoàn toàn bí mật, một nhóm gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để
không được nhắc tới Last Name để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm
được cũng không biết là ai, để nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có
những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới
tài chánh và ngân hàng. Trong số đó người sẽ đóng vai trò quan trọng nhất là
ông Paul Warburg (1868-1932) người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, có quốc
tịch Mỹ năm 1911 và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company
Bankers ở New york [thuộc tài sản của Rothschild]. “First Name Club” được triệu tâp đến một hòn
đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, họp
trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và
luật pháp tiền tệ [the banking and currency legislation] đệ trình lên
Congress. H-: Trong dự luật có cái gì là đặc biệt? Đ-:
Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét,
nên phải tránh cho kỳ được cụm-từ "Central Bank" rồi phải làm sao
cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chính phủ, do nhân viên chính phủ điều
khiển vì vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ [chớ không phải là Central
Bank] và có Governing Board mà ông chủ tịch là do T.T. bổ nhiệm, và trong đó
có hai nhân viên chánh phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không điều
khiển được chính sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu
để che giấu thực ý như trong Lời Mở Đầu [Preamble] của dự luật nói: Mục đích
của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” [to furnish
an elastic currency] nghĩa là gì? Trong
thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi
phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “[rediscounting]
nghĩa là gì? Trong thực tế nghĩa là: một kỹ thuật cho phép nhà bank
dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà
không cần chờ cho tới khi các loan trước hết hạn. Kết quả là Luật cho phép
một nhà bank trung ương tư [a private central bank] tạo ra tiền từ chỗ
không có gì hết [create money out of nothing] rồi cho chính phủ vay số
tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bơm
phồng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn [control the national
money supply, expanding or contracting it at will.] H-: Thế mà không có Ông Nghị sĩ hay Dân biểu nào thấy sao? Đ-:
Có chớ. một số thấy và la làng lên .Như ở Hạ Viện Dân Biểu Charles Lindbergh
Sr. [bố của phi công trứ danh Lindbergh] nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội
phạm pháp tệ hại nhất của mọi thời đại. Hệ thống tài chánh đã bị lật lại cho
một nhóm người chỉ biết lợi dụng. Hệ thống là của tư-nhân, có mục tiêu duy
nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc xử dụng tiền của người khác
“. Và
cũng còn một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để
đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người
trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội-viên của nhà bank ở New York
ngày 25-6-1863 rằng: “Một số ít người hiểu cái hệ thống đó là gì, thì hoặc là
vì thấy có lợi cho mình, hoặc là vì đã lệ thuộc vào những ân huệ đang được
hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số
người không có đủ trí khôn để hiểu, thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than
phiền”. Bởi
vậy cho nên ngày 18-9-1913, dự luật được Hạ Viện chấp thuận với 287 phiếu
thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng Viện ngày 19-12-1913, dự luật được
chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến
đây lại có một việc lạ nhất chưa bao giờ xẩy ra trong lịch sử của HCQHK, là
trong cái bản văn của dự luật ở Hạ Viện có cho tới 40 điểm mà Thượng Viên
không đồng ý nên đã sửa lại. Sau khi Thượng Viên biểu quyết, hai Viện phải
ngồi chung lại để sửa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế mà việc ấy được
thực hiện chỉ trong một ngày cuối tuần. Đến ngày Thứ hai 22-12-1913 dự luật
được biểu quyết ở Hạ Viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống, rồi cùng
ngày chuyển sang Thượng Viện cũng được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và
23 phiếu chống. Rồi T.T. Woodrow Wilson (1913-1921), vị T.T. thứ 28 của Mỹ ký
thành luật ngày hôm sau thứ ba 23-12-1913. Tất
cả những việc ấy xẩy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và
truyền thống của Quốc Hội và của Chính Phủ Mỹ là không bao giờ Lập Pháp
Congress [Thượng và Hạ Viện] thảo luận và biểu quyết một Dự Luật vào
lúc gần Noel, để cho Congress xả hơi [thường thường là kể từ 15, 17 Dec.] và
các Nghị Sĩ và Dân Biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và New Year, và
không bao giờ Hành Pháp [Chánh Phủ] ký một Đạo Luật vào Noel để cho T.T. về
nhà riêng hay trang trại của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ
này Thượng Viên hợp lại, thảo luận, và biểu quyết ngày Thứ Sáu 19 Dec. Rồi cả
hai viện làm việc với nhau weekend 20-21 Dec, để ngày Thứ Hai 22-Dec cả hai
viện hợp lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, để sang ngày Thứ Ba 23 Dec.
T.T. ký thành Luật. Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ Viện: “Dự luật này thành lâp cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà T.T. ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái chánh phủ vô hình của Mãnh Lực Tiền Tệ sẽ được hợp-pháp-hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng rồi họ sẽ biết sau vài năm mà thôi”. Trong lúc đó thì báo chí [đã ở trong tay của “Mãnh Lưc Tiền Tệ”] thì ca tụng hết lời. Báo New York Times chạy tít lớn ở trang đầu: “Tổng Thống Wilson ký Dự Luật Tiền Tệ để sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai cấp. H-: Thế là con Hydra được khai sinh là đứa con hơp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước? Đ-: Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”. H-: Nói gì lạ vây, đứa em song-thai nào? Đ-: Khi nhóm của Nghị Sĩ Nelson Aldrich có ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để trình cho Congress, họ đã tiên đoán rằng với sự áp dụng luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tìm cách làm sao cho phép chánh phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. Thế là họ kèm theo dự luật FED một Tu-Chỉnh Hiến Pháp [là the Sixteenth Amendment] cho phép CPLB đánh thuế income tax vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu-Chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên bộ Luật về thuế má chỉ có14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17.000 trang, cũng như nợ của chánh phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là $8.5 trillion. H-: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao? Đ-: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho Tiểu Bang của mình mà thôi. H-: Đã được hơp-pháp-hóa rồi, con Hydra còn phá phách gì nữa không? Đ-: Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được hơp-pháp-hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai họa cho dân. H-: Tai họa gì? Đ-: Cuộc Đại Khủng Hoảng [The Great Depression] năm 1930. H-: Bằng cách nào? Đ-:
Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo-thuật “loan”. Để khuyến
khích dân vay tiền, nên FED hạ thấp bách phân lời [% interest] thì dân ùn ùn
vay nợ để có tiền tiêu xài thả ga. Nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một
số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát [inflation]. Rồi nói là để kềm hảm
sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát
ra, không cho vay loan mới, thì dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng
đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mãnh Lực Tiền Tệ [Monetary
Power] có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những
người thiếu nợ thì trở nên vô gia cư, vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu
ngoài đường như hồi Mỹ còn là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua
George III, trước ngày Cách Mạng Mỹ [American Revolution] năm 1774. Nhưng nhờ
chánh sách “New Deal” của T.T.Franklin D.Roosevelt (1933-1945) vị T.T. thứ 32
của Mỹ và việc lập lên cái FDIC [Federal Deposit Insurance Corporation] mà
tình thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Nobel Prize về kinh tế,
viết: “Nhất định là FED đã gây ra cuộc Đại Khủng Hoảng vì thu rút lại một
phần ba [1/3] số tiền đang lưu hành từ năm 1929 tới năm 1930”. Còn Ông Louis T. McFadden Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là bất ngờ ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận … Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta”. H-: Thế rồi kể từ đó không có Ông T.T. nào dám đụng tới FED nữa? Đ-: Có chớ, T.T. John F. Kennedy, (1961-1963) vị T.T. thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-th.6-1963 T.T. Kennedy ký một Hành Pháp Lệnh [an Executive Order số 11110] cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài Chành The Treasury phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thoi bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ [the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury] Nghĩa là một khi Bộ Tài Chánh có trong kho một ounce bạc nào, thì Bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy T.T.Kennedy đã tung ra $4.3 tỷ dollars cho lưu hành. Thế là FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc [silver certificates] của Chính Phủ được bạc yểm trợ [backed by silver] chớ giấy bạc của FED [Federal Reserve Notes] không có cái gì yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp chánh phủ trả hết nợ của mình mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là trên thực tế lệnh số 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến Pháp Hoa Kỳ. Năm tháng sau, ngày 22-11-1963, T.T.Kennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Dallas Police Station.
Đ-:
Tôi không dám trả lời là phải hay là không [yes or no] vì tôi không đọc được
sách nào nói rõ là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh
Lực Tiền Tệ [the Monetary Power] hay một vị nào trong nhóm những Nam Tước
Trộm Cắp [the Robber Barons] về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế.
Cho nên tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của
mình. Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của Ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị Tổng Thống đã có gan dám chặt đầu con Hydra tiền tệ: T.T.Andrew Jackson bị mưu sát, T.T.Abraham Lincoln và T.T.John F.Kennedy bị ám sát. Tài
liệu được tham khảo: The Web of Debt by Ellen Hodgson Brown, nxb Third Millennium, Baton Rouge , 2007 The Secrets of the Federal Reserve by Eustace Mullins nxb Bankers Research Institute Staunton, 1993 Modern Money Mechanics published by the Federal Reserve Bank of Chicago , now out of print: http://landru.i-link-2.net The Federal Reserve is a privately owned corporation by Thomas D. Schauf. 11-28-98 in http://www.apfn.org/ NLV |
(Nguồn:
Kính Nguyễn chuyển tiếp thunhan1-2@yahoogroups.com)